Tri thức là chất xám đưa đất nước đi lên, sánh vai với cường quốc năm châu. Một đất nước có người dân đạt trình độ cao về trí thức mức sống của người dân được cải thiện hơn, con người được hạnh phúc hơn. Xã hội từ đó yên bình hơn, trở nên văn minh và
Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội. Trí thức Việt Nam
Hội nữ trí thức tỉnh Đồng Nai vừa phối hợp với trường Chính Trị tỉnh tổ chức hội thảo khoa học đề tài cấp tỉnh "Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát huy vai trò đội ngũ nữ trí thức" . Tại Đồng Nai, nữ trí thức chiếm hơn ½ lực lượng đội
Trí thức là người có kiến thức sâu xa về một hay nhiều lĩnh vực hơn sự hiểu biết của mặt bằng chung của xã hội vào từng thời kỳ.. Sự xuất hiện của từ trí thức khi một văn bản kháng nghị công bố năm 1906 - do nhà văn Zola ký tên đầu - lại được thủ tướng Pháp Clemenceau (tiến sĩ, nhà báo) gọi là
Mua sách trang thương mại uy tín. TIKI SHOPEE FAHASA LAZADA. Danh mục: Kết nối tri thức với cuộc sống Từ khóa: Tự nhiên và Xã hội 1 Kết nối tri thức với cuộc sống PDF. Mô tả. Tự nhiên và Xã hội 1 Kết nối tri thức với cuộc sống PDF.
wjMCpwG. Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư duy thì lúc đó có tri thức. Trải qua một thời gian dài phát triển của lịch sử, cho đến những thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội mới được đề cặp nhiều. Vậy tri thức là gì?1. Khái niệm về tri rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu “Tri thức là sự hiểu biết, sáng tạo và những khả năng, kỹ năng để ứng dụng nóhiểu biết sáng tạo vào việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát triển kinh tế -xã hội. Tri thức bao gồm tất cả những thông tin, số liệu, bản vẽ, tưởng tượngsáng tạo, khả năng, kỹ năng quan niệm về giá trị và những sản phẩm mang tính tượng trưng xã hội khác. Tri thức có vai trò rất lớn đối với đời sống –xã tế thế giới đang bước vào một thời đại mới, một trình độ mới. Đó là trình độ mà “nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và việc sáng tạo, phân phối và sử dụng tri thức trong các ngành kĩ thuật cao”. Tiêu chí chủ yếu của nó là lấy tri thức, trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực tiếp giống như các yếu tố sức lao động và tài nguyên. Đó là thời đại mà “Tri thức đã trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội”, “Tri thức là tài nguyên là tư bản”, Tri thức là tâm điểm của cạnh tranh và là nguồn lực dẫn dắt cho sự tăng trưởng dài hạn dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ chức sản xuất, cấu trúc thị trường, lựa chọn nghề nghiệp…2. Vai trò của tri thức trong đời sống-xã hộiTri thức đã và đang ngày càng trở lên quan trọng đối với đời sống xã hội. Nó tác động trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục… Vai trò của tri thức đối với Kinh tế – Kinh tế tri thứcNền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó quá trình thu nhận truyền bá, sử dụng, khai thác, sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong quá trình tạo ra của cải. Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó– Tri thức khoa học-công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là cơ sỏ chủ yếu và phát triển rất mạnh– Nguồn vốn quan trọng nhất, quý nhất là tri thức, nguồn vốn trí tuệ.– Sáng tạo và đổi mới thướng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đảy sụ phát triển.– Nền kinh tế mang tính học tập.– Nền kinh tế lấy thị trường toàn cầu là môi trường hoạt động chính.– Nền kinh tế phát triển bền vững do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô tận và năng động là tri tiễn hai thập niên qua đã khẳng định, dưới tác động của cách mạng khoa học – công nghệ và toàn cầu hóa, kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều nước phát triển và sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn trong một, hai thập niên xuất hiện của các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên tri thức. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy sản xuất và kinh doanh tri thức làm nội dung chủ yếu. Tương lai của bất cứ doanh nghiệp nào cũng không chỉ phụ thuộc vào việc sử dụng tiền bạc, nguyên vật liệu, nguồn nhân lực và máy móc thiết bị…mà còn phụ thuộc vào việc xử lý và sử dụng những thông tin nội bộ và thông tin từ môi trường kinh doanh. Cách tốt nhất để tăng năng suất là tìm hiểu kiến thức chuyên môn mà hãng có được, sử dụng vì mục đích thương mại và những kiến thức này cần được phát triển không trị của những công ty công nghệ cao như các công ty sản xuất phần mềm và các công ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu hình, mà còn nằm trong những tài sản vô hình, như tri thức và các bằng sáng chế. Để trở thành một công ty được dẫn dắt bởi tri thức, các công ty phải biết nhận ra những thay đổi của tỉ trọng vốn trí tuệ trong tổng giá trị kinh doanh. Vốn trí tuệ của công ty, tri thức, bí quyết và phương pháp đội ngũ nhân viên và công nhân cũng như khả năng của công ty để liên tục hoàn thiện phương pháp sản xuất là một nguồn lợi thế cạnh tranh. Hiện có các bằng chứng đáng lưu ý chỉ ra phần giá trị vô hình của các công ty công nghệ cao và dịch vụ đã vượt xa phần giá trị hữu hình của các tài sản vật thể của các công ty đó, như các toà nhà hay thiết bị. Ví dụ như các tài sản vật thể của công ty Microsoft chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng giá trị được vốn hóa trên thị trường của công ty này. Phần lớn là vốn trí tuệ. Sau hai mươi năm thành lập, số nhân viên công ty tăng 6 nghìn lần, thu nhập tăng 370 nghìn lần, 1/10 số nhân viên trở thành triệu phú. Nguồn vốn con người là một thành tố giá trị cơ bản trong một công ty dựa vào tri kinh tế tri thức sẽ ngày càng làm xuất hiện nhiều sản phẩm thông minh. Đó là những sản phẩm có khả năng gạn lọc và giải thích các thông tin để người sử dụng có thể hành động một cách hiệu quả hơn. Ngay cả một chiếc bánh kẹp thịt cũng có thể trở thành một sản phẩm mới dựa trên tri thức bằng cách làm cho khách hàng biết cách sử dụng những thông tin về dinh dưỡng. Số lượng ka-lo và chất béo được in lên hóa đơn hoặc thậm chí trình bày thông tin đó trước khi khách đặt hàng. Thậm chí có những sản phẩm thông minh vừa có thể truyền đạt thông tin về sản phẩm vừa khuyên khách hàng nên làm gì từ tình hình vừa được thông tri thức –vai trò của nó trong kinh tế tri thứcVốn tri thức là tri thức được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích sinh lợităng thêm giá trị.Vốn tri thức là một yếu tố nổi bật nhất trong hàm sản xuất. Trong văn minh nông nghiệp thì sức lao động, đất đai và vốn là những yếu tố của sản xuất công nghiệp, vốn, đất đai và nhất là sức lao động trở thành hàng hóa với tư cách là những yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội, góp phần chuyển xã hội phong kiến thành xã hội tư bản trong lịch sử. Còn trong kinh tế tri thức, yếu tố của sự phát triển nền kinh tế-xã hội không chỉ bao gồm vốn tiền tệ, đất đai và dựa trên lao động giản đơn mà chủ yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn với tri thức. Như vốn tri thức trở thành yếu tố thứ nhất trong hàm sản xuất thay vì yếu tố sức lao động vốn tiền tệ và đất tri thức thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Nước Mỹ nói riêng và các nước thuộc tổ chức OECD nói chung nhiều năm qua tăng trưởng ổn định với tốc độ cao là nhờ có sự phát triển của các ngành kinh tế dựa trên tri thức như các ngành công nghệ thông tin, viễn thông, vũ trụ, đầu tư, ngân hàng, tài chính, chứng khoán, bảo hiểm…Đồng thời chuyển đầu tư vốn tri thức từ các ngành truyền thống sang các ngành có hàm lượng tri thức cao. Ở các nước có nền kinh tế đang phát triển, đầu tư càng nhiều vốn tri thức thì mang lại giá trị gia tăng cang lớn, tỷ xuất lợi nhuận càng tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Vốn tri thức ở đây bao gồm các công nhân tri thức, các nhà quản lý có trình độ cao, các công nghệ tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Các quốc gia kém và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp cận với kinh tế tri thức, thông qua tri thức hóa các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đặc biệt sớm hình thành các công nghệ cao để nhanh chóng đưa nền kinh tế đất nước đuổi kịp các nước phát Vai trò tri thức đối với chính trịTri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức. Người có tri thức là có khả năng tư duy lý luận, khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách sát thực, đúng đắn. Điều này rất quan trọng, một đất nước rất cần những con người như vây để điều hành công việc chính trị. Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia. Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con người. Đại hội nhấn mạnh “Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt đông” chiến lược phát triển con người đang là chiến lược cấp bách. Chúng ta cần có những giải pháp trong việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức Tuyển chọn những người học rộng tài cao, đức độ trung thành với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, thuộc các lĩnh vực, tập trung đào tạo, bồi dưỡng cho họ những tri thức còn thiếu và yếu để bố trí vào các cơ quan tham mưu hoạch định đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước với những qui định cụ thể về chế độ trách nhiệm quyền hạn và lợi xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học –công nghệ và giáo dục-đào tạo thành một hệ thống có mối liên hệ gắn kết với nhau theo liên ngành, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hợp tác nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Hợp nhất các viện nghiên cứu chuyên ngành vào trường đại học và gắn kết trường đại học và các công ty, xí nghiệp. Các cơ quan nghiên cứu và đào tao được nhận đề tài, chỉ tiêu đào tạo theo chương trình, kế hoạch và kinh phí dựa trên luận chứng khả thi được trách nhiệm của người đứng đầu cơ năm theo định kỳ có những cuộc gặp chung giữa những người có trọng trách và các nhà khoa học đầu ngành của các cơ quan giáo dục-đào tạo và trung tâm khoa học lớn của quốc gia, liên hiệp các hội khoa học Việt Nam…với sự chủ tri của đồng trí chủ tịch, sự tham gia của các thành viên Hội đồng giáo dục -đào tạo và khoa học-công nghệ quốc gia về những ý kiến tư vấn, khuyến nghị của tập thể các nhà khoa học với Đảng và nhà nước về định hướng phát triển giáo dục-đào tạo. Phát triển khoa học –công nghệ, cách tuyển chon và giao chương trình đề tài, giới thiệu những nhà khoa học tài năng để viết giáo khoa, giáo trình, làm chủ nhiệm chương trình, đề tài và tham gia các hội đồng xét duyệt, thẩm định nghiệm thu các chương trình, đề tài khoa học cấp Nhà hiệp các hội khoa học Việt Nam cần thường xuyên và phát huy trí tuệ của các nhà khoa học, dân chủ thảo luận để đưa ra được những ý kiến tư vấn, những khuyến nghị xác thực có giá trị với Đảng, Nhà nước và động viên tập hợp lực lượng các hội viên tiến quân mạnh mẽ vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ mà đất nước đang mong chờ để sớm thoát khỏi tình trạng nghèo và kém phát Vai trò tri thức đối với văn hóa-giáo dụcTri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hóa -giáo dục của một quốc gia. Nó giúp con người có được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý thức của con người được nâng cao. Và do đó nền văn hóa ngày càng lành mạnh. Có những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo dục. Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh.
1. Hiểu rõ tri thức là gì ? "Tri thức là gì" là câu hỏi nhận được nhiều sự quan tâm của mọi người, nhưng không có một lời giải thích hay định nghĩa chính xác về khái niệm này. Ngay từ khi còn nhỏ, cất tiếng khóc chào đời đến khi bắt đầu tiếp xúc với những kiến thức đơn giản, thì các bạn đã hình thành con người có tri thức, từ việc tiếp thu kiến thức đến áp dụng nó một cách hoàn hảo. Từ thời xa xưa, tri thức là người nuôi dưỡng, bảo vệ, truyền bá những giá trị truyền thống cũng như nét đẹp văn hóa mà cha ông ta để lại, sau lớn dần nó hình thành tri thức chuyên môn, khả năng sẵn có của chính mình. Có rất nhiều định nghĩ khác nhau về tri thức, ở các lĩnh vực hay hoàn cảnh khác nhau, người ta đánh giá về khái niệm tri thức là gì? Tri thức là tất cả những dữ liệu, thông tin, kỹ năng,... có được qua trải nghiệm thực tế hoặc học tập. Tri thức có thể chỉ về sự hiểu biết về một đối tượng hay sự vật về lý thuyết và thực hành. Có 2 dạng tồn tại của tri thức là tri thức ẩn và tri thức hiện. Tri thức hiện là những thứ được thể hiện qua văn bản, âm thanh, hình ảnh,... được truyền đạt dễ dàng qua hình thức giáo dục. Tri thức ẩn là những tri thức được thu lại nhờ sự trải nghiệm thực tế rất khó truyền đạt, chuyển giao mà phải tự trải nghiệm và tập luyện. Người tri thức có thể hiểu là người lao động trí óc, là người có học, am hiểu nhiều kiến thức và cũng có thể là người khám phá và truyền bá tri thức ở các chuyên môn nhất định, sự tiếp nối đó là trong quá trình rèn luyện của con người, bạn phải là người tích cực tham gia phản biện xã hội, đưa ra ý kiến quan điểm cá nhân, tri thức là lương tâm của xã hội. Một xã hội giàu đẹp văn minh đòi hỏi người có tri thức cao, trải qua nhiều giai đoạn phát triển, tri thức càng ngày có sự tiến bộ cao, trau dồi để trở thành con người hiện đại, ai có tri thức nhiều người đó có sức mạnh, quyền lợi cao. Phụ huynh nhận thấy được những khó khăn của con em mình trong việc nâng cao tri thức mà đưa ra những phương pháp học tập tốt nhất, lựa chọn gia sư mang lại tri thức cho học sinh là phương pháp hiệu quả nhất phụ huynh có thể làm. 2. Vai trò của tri thức trong xã hội Tri thức có thể hiểu là sản phẩm đặc thù của xã hội, sự ra đời của tri thức thường gắn liền với sự hình thành của xã hội loài người. Do đó, không thể tách trí thức ra khỏi xã hội để định nghĩa xem tri thức là gì cũng như mong muốn hiểu sâu hơn về tri thức, đó là việc làm không tốt, tách tri thức ra khỏi xã hội giống như việc tách những con cá ra khỏi dòng nước đề tìm sự thích nghi hay hoạt động của cá. Vai trò của tri thức trong xã hội là rất cần thiết và quan trọng. + Khi con người có tri thức, có hiểu biết, am hiểu sâu rộng tới mọi vấn đề hay lĩnh vực xã hội, thì con người ta dễ dàng thực hiện được những mục tiêu, ham muốn, ước nguyện của bản thân, chỉ có tri thức được lấy bằng chính mồ hôi công sức thì mới mang lại được hiệu quả. Và hiển nhiên, một xã hội với những con người thành đạt giúp xã hội phát triển không ngừng về tri thức. Đơn giản rằng khi xã hội được hợp thành bởi cá nhân, nhưng sự kết hợp mang lại hiệu quả thì cần quá trình rèn luyện không ngừng đối với thế hệ trẻ, việc học tập như nào, trau dồi bản thân ra sao để tri thức mình mang lại cho xã hội có sự đóng góp hiệu quả nhất. + Khi nhu cầu xã hội ngày càng nâng cao, việc đáp ứng nhu cầu đòi hỏi mỗi công dân cần phải có, đặc biệt nhu cầu trong giáo dục và trách nhiệm của học sinh sinh viên là quan trọng. Con người có tri thức, kiến thức và nhận thức tốt, làm chủ tri thức bản thân là chủ trong cách sống của mình, biết bản thân mình làm gì, biết được nhu cầu xã hội đang đòi hỏi gì ở chính các bạn trẻ, mà không ngừng học hỏi. Vai trò của tri thức trong việc phục vụ những yêu cầu của xã hội, cũng góp phần trong việc thể hiện khả năng bản thân mình ở xã hội không ngừng phát triển lớn mạnh. + Khi trở thành con người có tri thức thì sống theo chuẩn mực đạo đức tốt, giữ gìn cũng như phát huy được những giá trị văn hóa tốt đẹp ông cha ta để lại. Một câu hỏi đề ra, nếu bản thân mỗi công dân không có am hiểu về tri thức trong sự nhìn nhận thì xã hội sẽ duy trì như thế nào. Tri thức hình thành được là nhờ sự tiếp thu kiến thức cũng như học hỏi được những kỹ năng, một xã hội sẽ lạc hậu, không có sự phát triển là xã hội còn xuất hiện những con người không có trí thức, một thành phần thừa trong xã hội. + Vai trò cuối cùng mà tri thức mang lại cho xã hội là sự hội nhập quốc tế, giao lưu học hỏi kiến thức hay những truyền thống tốt đẹp của các quốc gia khác là rất cần thiết, hay là tham gia các cuộc thi quốc tế mà các vấn đề cần quan tâm ở đây là ngôn ngữ tiếng anh phải thực sự tốt và chuyên môn cao. Xã hội sẽ được sánh ngang với các cường quốc năm châu, sự sáng tạo cũng như những phát minh hay, mới lạ thì công dân có tri thức là không thể thiếu, tri thức lúc này như là công cụ giúp giải quyết mọi vấn đề khó khăn không chỉ cho bản thân, gia đình mà còn cho cả xã hội vì lợi ích của đất nước. Nhận thức rất rõ việc học tập, cũng như biết được những giá trị tri thức thì mỗi học sinh sinh viên cần phải phát huy bản thân học hỏi trong nhiều lĩnh vực, phụ huynh cũng có giải pháp tốt nhất cho các bạn trẻ trong việc rèn luyện các kỹ năng mềm hay kiến thức chuyên sâu môn học, đó cũng là chặng đường giúp các bạn trẻ chuẩn bị tốt nhất để có hành trang tốt trên con đường đi tìm thành công và hỗ trợ học sinh và phụ huynh trong việc học tập của con em mình rất cần đến một gia sư chất lượng, hiệu quả. 3. Tiêu chí để trở thành con người tri thức Để trở thành công dân có tri thức tốt không phải ngày một ngày hai, mà cần một quá trình dài, cần sự quyết tâm cao, có được tri thức cho bản thân là một lợi thế tốt để mọi người có nhiều cơ hội trong cuộc sống tốt đẹp, lợi thế đi kèm có kết quả, phải biết vận dựng lợi thế đó như thế nào là đúng là chính xác thì khó khăn đối với thế hệ trẻ cũng như cha mẹ càng nâng cao. Tiêu chí để trở thành con người tri thức là quan trọng, các bạn nhìn vào đó để rèn luyện bản thân mình hơn và phụ huynh nhìn vào tiêu chí đó để đánh giá con em mình khi có những suy nghĩ trưởng thành và có sự tiến bộ cao. + Người có tri thức trước tiên là người biết được xã hội cần gì, bản thân hoàn cảnh của mình đáp ứng được bao nhiêu, sự nhìn nhận vấn đề thực tế giúp các bạn hoàn thành công việc một cách nhanh hơn, con số, số liệu thực tế là những gì người ta nhìn vào đó biết mình nên thay đổi gì, bổ sung gì để kết quả tốt nhất. + Khi biết được bản thân muốn gì thì mọi người cần đặt ra những mục tiêu cụ thể, đặt ra rồi thì phải bắt tay vào hành động, thời gian không đợi chờ ai, khi bạn nghỉ ngơi là bạn mất một khoảng thời gian dài lãng phí của mình trong khi mọi người đang học tập hay làm việc miệt mà, tri thức con người là rộng lớn, không ai quan tâm bạn lĩnh hội nó như thế nào, họ chỉ quan tâm kết quả mọi người mang lại ra sao. Do đó, hành động và đứng dậy thực hiện mục tiêu là cần thiết, dám hành động, dám theo đam mê, theo sở thích là lúc các bạn đứng lại đấu tranh cho quyền lợi bản thân, chứng tỏ tri thức của bản thân. + Tiêu chí về sức khỏe, nghị lực cũng quan trọng trong việc phát triển tri thức của con người, sức khỏe tốt mọi người có thể làm việc và cống hiến công sức vào công việc gì hay làm gì mà mình muốn, đặc biệt góp phần trong việc học tập là rất quan trọng. Nghị lực, lòng quyết tâm, sự kiên nhẫn, chịu khó là điều cần có đối với mỗi người công dân, đặc biệt đối với các bạn trẻ, khi học tập là nghĩa vụ mà các bạn phải hoàn thành và thực hiện. Rèn luyện cho bản thân những kỹ năng thấu hiểu, cảm thông, cảm nhận những vấn đề cũng là nền tảng phát triển về tri thức cho các bạn trẻ. + Để con người có tri thức tốt thì việc điều chính về hành động của bản thân là cần thiết trong văn hóa ứng xử, giao tiếp cũng như truyền đạt kiến thức cần có ở những con người có tri thức chuyên sâu. Điều chỉnh hành động ở đây được hiểu là bạn cần phải hoàn thiện được việc làm sai của bản thân một cách chủ động, tự giác. Không ai là hoàn hảo về mọi thứ, và bạn không có trách nhiệm với bản thân khi bắt buộc các bạn làm những điều vượt khỏi khả năng, vượt khỏi sự kiểm soát, cuộc sống là sự ganh đua, người kém cỏi phải chấp nhận tụt lùi phía sau, thay đổi bản thân là lúc mở ra cho mình con đường mới tươi sáng hơn. Có bao giờ các bạn tự hỏi và tự trả lời rằng tại sao có người giàu, người nghèo, người hạnh phúc vui vẻ lại có người hay than vãn, người có công việc ổn định, người lại ngồi chơi tìm việc không. Khi các bạn tự ý thức được câu trả lời trong việc tự hỏi bản thân thì các bạn đang dần trau dồi cho bản thân về tri thức cuộc sống. Cần có sự nhìn nhận sâu rộng trong các lĩnh vực của đời sống để phát triển bản thân hơn. 4. Cùng rèn luyện tri thức hiệu quả Tri thức được thể hiện qua nhiều lĩnh vực đời sống, trong kiến thức học tập, về kỹ năng mềm hay tri thức từ những hành động thực tế xung quanh chúng ta. Và đặc biệt, đối với thế hệ trẻ vẫn đang trong quá trình học tập thì tri thức trong việc tiếp thu kiến thức sách vở là quan trọng. Việc học tập trên trường lớp hay tự học ở nhà chưa đáp ứng đầy đủ điều kiện học tập của các bạn và lựa chọn gia sư tại nhà để củng cố kiến thức là quan trọng và nơi giúp phụ huynh có sự lựa chọn tốt nhất về tìm gia sư chất lượng, phù hợp với con em mình, nơi lòng tin tưởng luôn được đề cao. với nhiều tính năng hay hấp dẫn như giao diện trang web đẹp mắt, dễ tìm kiếm, thao tác sử dụng nhanh gọn và hiệu quả, dịch vụ tìm gia sư và tìm lớp dạy cho gia sư miễn phí. Và các bạn trẻ có thể chọn trong việc tiếp thu tri thức về các kỹ năng hay kinh nghiệm bản thân qua công việc dạy gia sư, không chỉ củng cố lại kiến thức cho bản thân trong việc truyền đạt kiến thức cho người khác mà nhận thức được ý thức của bản thân trong sự va chạm mới đối với cuộc sống xã hội, khi không còn được sống trong sự bao bọc của cha mẹ, khi trang bị cho bản thân đầy đủ tri thức rồi thì việc tự chủ trong hành động, trong suy nghĩ một cách đúng đắn là cao, tự chủ trong tri thức cũng là tự chủ và có trách nhiệm với tương lai sau này của chính các bạn. >> Tham khảo thêm Những bước để tìm thấy lửa học tập và cách học giỏi Những cuốn sách hay nên đọc mà bạn nhất định phải biết
Đây là bài viết tham dự “Ngày Xã hội học Nam Bộ 2013” tổ chức ngày 11/1/2013 tại. Trường Đại học Tôn Đức Thắng. Bài viết cho thấy quan niệm về việc sản xuất tri thức của truyền thống xã hội học. Đặc điểm của tri thức và tính quy luật của xã hội học được đề cập. Tính thực tiễn, phê phán và trung lập của xã hội học cũng là đề tài gây nhiều tranh luận. Và cuối cùng,bài viết phác họa vai trò và việc sản xuất ra tri thức xã hội học trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI SOÁ 4176-2013 22 XÃ HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ TRI THỨC XÃ HỘI HỌC TRONG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI NGUYỄN XUÂN NGHĨA TÓM TẮT Đây là bài viết tham dự “Ngày Xã hội học Nam Bộ 2013” tổ chức ngày 11/1/2013 tại Trường Đại học Tôn Đức Thắng. Bài viết cho thấy quan niệm về việc sản xuất tri thức của truyền thống xã hội học. Đặc điểm của tri thức và tính quy luật của xã hội học được đề cập. Tính thực tiễn, phê phán và trung lập của xã hội học cũng là đề tài gây nhiều tranh luận. Và cuối cùng, bài viết phác họa vai trò và việc sản xuất ra tri thức xã hội học trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam. Ngày Xã hội học Nam Bộ năm 2013 đặt ra chủ đề trao đổi “Vai trò và tiếng nói của tri thức xã hội học trong xã hội đương đại”1. Muốn trả lời cách cơ bản cho vấn đề nêu ra, trước hết phải tìm hiểu truyền thống xã hội học đã quan niệm tri thức được sản xuất ra như thế nào, đâu là đặc trưng của tri thức xã hội học, tri thức xã hội học có mang tính khoa học không? Tri thức xã hội học để làm gì? Vai trò và việc sản xuất ra tri thức xã hội học ở Việt Nam hiện nay như thế nào? 1. XÃ HỘI HỌC VỀ TRI THỨC Các nhà xã hội học tiền phong đều ít nhiều đề cập đến sự hình thành tri thức và tri thức xã hội học, tuy nhiên thuật ngữ “xã hội học về tri thức” sociology of knowledge chỉ được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1924 và 1925 bởi Scheler 1874-1928 và Mannheim 1893-1947, như là một chuyên ngành của ngành xã hội học nhằm tìm hiểu nguồn gốc xã hội của các ý tưởng McCarthy, 2000, tr. 2953. Bộ môn xã hội học về tri thức còn có thể được định nghĩa như một chương trình nhằm giải thích từ các biến số xã hội một số ý tưởng, lý thuyết và tổng quát hơn một số sản phẩm tinh thần Boudon, 2003, tr. 43. Marshall cho rằng xã hội học về tri thức quan tâm đến mối liên hệ giữa tri thức và cơ sở xã hội. Tuy nhiên, thế nào là tri thức, thế nào là cơ sở xã hội thay đổi từ tác giả này sang tác giả khác Marshall, 1998, tr. 342-343. Trong số các nhà xã hội học tiền phong, E. Durkheim cho rằng tôn giáo có chức năng nhận thức bằng cách cung cấp cho ta biểu tượng về tự nhiên và xã hội. Ngay trong phần dẫn nhập của tác phẩm “Những hình thái sơ khai của đời sống tôn giáo”, ông đã đặt tiêu đề “Xã hội học tôn giáo và lý thuyết về tri thức”. Chính qua tô-tem giáo mà ta hiểu khái niệm xã hội như là một tổng thể. Và đi xa hơn, theo ông, những phạm trù tinh thần cơ bản, qua chúng, ta nhìn thế giới một cách trật tự, đã bắt nguồn từ phương thức ta tổ chức xã hội. Trong bài báo “Các biểu tượng cá nhân và các biểu Nguyễn Xuân Nghĩa. Tiến sĩ. Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh. NGUYỄN XUÂN NGHĨA – XÃ HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 23tượng tập thể” 1898, ông giải thích các biểu tượng tập thể trước hết tùy thuộc các cơ sở hình thái của xã hội các biểu tượng sơ cấp, nhưng các biểu tượng thứ cấp đặt cơ sở trên các biểu tượng sơ cấp, một khi phát triển, chúng có tính độc lập tương đối đối với cái cơ sở xã hội. Trong một bài báo khác, với sự cộng tác của Mauss, “Các hình thái sơ khai của sự phân loại”, qua nghiên cứu các hệ thống phân loại ở các bộ lạc châu Úc, tổ chức của người Zuni ở Mêhicô, thuật bói toán của người Trung Quốc, ông đi đến nhận định hình thái cấu trúc của một nhóm xã hội hình thành nên khung khổ qua đó tương quan giữa các sự vật được tư duy. Ông đi đến kết luận xã hội học có thể giải thích sự phát sinh và vận hành của các thao tác logic ý tưởng về sự phân loại tất yếu kéo theo ý tưởng về thứ bậc hiérarchie, mà thứ bậc là một sự kiện xã hội hay nói cách khác thứ bậc xã hội là nơi xuất phát ý niệm phân loại. Nhịp điệu của cuộc sống xã hội là cơ sở của phạm trù thời gian; không gian sinh sống, xã hội là cơ sở của phạm trù không gian, tính tổng thể... Durkheim, [1912], 1991, tr. 39-68. Qua những tác phẩm xã hội học tôn giáo, M. Weber gán một tầm quan trọng đặc biệt cho những điều kiện vật chất trong việc hình thành các niềm tin tôn giáo. Tuy nhiên khác với Durkheim, Weber quan niệm xã hội học và lịch sử thuộc các khoa học về văn hóa rất khác biệt với các khoa học tự nhiên, do đó khó áp dụng các phương pháp thực chứng. Theo R. Aron, đặc trưng của các khoa học về văn hoá, đối với Weber, bao gồm sự thông hiểu, tính lịch sử và liên quan đến văn hoá. Aron, 1967, tr. 504. Các khoa học xã hội và nhân văn có đối tượng là nghiên cứu văn hoá. Khi nói đến văn hóa thì trước hết phải nghĩ đến tập hợp các giá trị. Như vậy làm thế nào các khoa học xã hội nói chung và xã hội học nói riêng có được tính khách quan? Weber đã đưa ra sự phân biệt giữa “phán đoán về giá trị” jugement de valeur, Werturteil và “quan hệ với giá trị” rapport aux valeurs, Wertbeziehung Weber, 1965, Tiểu luận thứ tư, “Tiểu luận về ý nghĩa của “Tính trung lập về giá trị” trong các khoa học xã hội học và kinh tế học” 1917. Theo ông, phán đoán về giá trị có tính chủ quan, do đó nhà xã hội học với tư cách là nhà khoa học không được có những phán đoán này trừ giai đoạn chọn đề tài nghiên cứu, còn khái niệm “quan hệ với giá trị” có nghĩa là khi nghiên cứu thực tại xã hội, nhà xã hội học phải quan tâm đến vị trí của những giá trị có liên quan đến hiện tượng xã hội được phân tích mà không đưa ra phán đoán qui phạm về những giá trị này. Hoạt động xã hội không bị định hướng bởi một giá trị nào ngoài sự thật. Đó là quan niệm của ông liên quan đến tính trung lập về giá trị neutralité axiologique . 1Tri thức trong tư tưởng của Marx gắn liền với lý thuyết về ý hệ. Ý hệ ở đây, được hiểu là thế giới quan cho phép hiểu được thế giới và thống trị nó và thế giới quan này được hình thành một cách vô thức trong các tầng lớp xã hội, tùy thuộc vào các lợi ích kinh tế của các tầng lớp này. Các thành viên của một tầng lớp nhất định - đặc biệt tầng lớp thống trị - thường có khuynh hướng đánh đồng quyền lợi của tầng lớp mình với quyền lợi chung của xã hội. Vấn đề được đặt ra, xã hội học là một khoa học hay là một ý hệ? Khi nào thì một NGUYỄN XUÂN NGHĨA – XÃ HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 24 phân tích xã hội học trở thành một phân tích ý hệ? Khi nào thì một lý thuyết “khoa học” được một hệ thống quyền lực sử dụng như là một công cụ hữu hiệu? Trong chừng mực nào thì những trí thức đã tạo ra các ý hệ ý thức được sự “vong thân” của mình? Đây là những câu hỏi rất khó giải đáp mà bộ môn xã hội học về tri thức đặt ra Mendras, 2001; Nguyễn Xuân Nghĩa, 2009, tr. 22. Tiếp theo quan điểm của các nhà xã hội học tiền phong, xã hội học về tri thức phát triển, nhưng vẫn mang ba dấu ấn lớn của xã hội học Pháp với truyền thống cấu trúc của Durkheim, của xã hội học Đức với dấu ấn của Marx và Mannheim và truyền thống thực dụng Mỹ với Dewey, Mead. Từ những năm 1990, hình thành một khuynh hướng được gọi là “xã hội học mới về tri thức” new sociology of knowledge, rời bỏ quan điểm duy vật và cấu trúc về tri thức và hướng về các lý thuyết ký hiệu học semiotic theories đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu các cách thức mà những ý nghĩa đa dạng của xã hội được truyền thông và sản sinh ra, và đặt trọng tâm vào việc nhấn mạnh tính tự chủ của các thực hành văn hóa mà ngôn ngữ là một thí dụ. Khuynh hướng này cũng nghiên cứu các loại hình cụ thể về tổ chức xã hội đã tổ chức tri thức như thế nào hơn là tìm hiểu xuất xứ xã hội và các quyền lợi của các nhóm có liên quan ví dụ qua các phương tiện truyền thông tri thức đã được bảo tồn, tổ chức, quảng bá như thế nào. Với các lý thuyết mới về quyền lực và thực tiễn xã hội - như của M. Foucault, P. Bourdieu - khuynh hướng này cũng nghiên cứu tri thức đã duy trì thứ bậc xã hội như thế nào và các kỹ thuật của quyền lực liên kết với tri thức như thế nào McCarthy, 2000, tr. Vì đối tượng nghiên cứu rất rộng - tính chất xã hội của tri thức - nhìn chung, xã hội học về tri thức đi theo hai lối tiếp cận. Lối tiếp cận rộng broad approach bao gồm một số công trình về xã hội học và lý thuyết xã hội nghiên cứu tính chất xã hội của tri thức và tinh thần, và lối tiếp cận cụ thể particular approach chỉ bao gồm những công trình của các chuyên gia về xã hội học tri thức Boudon, 2003, tr. 43-44; McCarthy, 2000, tr. TRI THỨC XÃ HỘI HỌC VÀ VẤN ĐỀ ĐI TÌM QUY LUẬT XÃ HỘI Vào thế kỷ XIX, khi xã hội học đòi vị thế của một khoa học độc lập, có nghĩa là xã hội học đã khoác lên vai mình sứ mạng đi tìm những qui luật chung về sự vận hành và biến chuyển của xã hội. Tuy nhiên, đứng trước sứ mạng này các nhà xã hội học đương đại đưa ra những ý kiến khác nhau. Những tác giả như R. Boudon, M. Crosier, J. G. Padioleau tỏ vẻ nghi ngờ. Boudon viết “Xã hội học thường xuyên bị cám dỗ bởi một ảo tưởng tìm ra chìa khóa của biến chuyển xã hội, để từ đó, làm giảm sự không chắc chắn về tương lai... Ngày nay, đại bộ phận các nhà xã hội học đều được thuyết phục rằng việc tìm kiếm những qui luật của lịch sử và những yếu tố thống trị biến chuyển đang dẫn đến một ngõ cụt” Boudon, 1979, tr. 19, Durand & Weil, 2002, tr. 724. Ngược lại, một số trào lưu lý thuyết khác vẫn xem ý định đi tìm tính qui luật, các qui luật xã hội là đối tượng của xã hội học. T. Parsons, cha đẻ của lý thuyết cơ cấu-chức năng structuro-functionalism, đã đưa ra NGUYỄN XUÂN NGHĨA – XÃ HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 25một lý thuyết tổng quát về hành động xã hội. R. Aron cũng định nghĩa xã hội học là “khoa học về hành động của con người. Nó vừa mang tính thấu hiểu về những ứng xử của cá nhân và tập thể; vừa mang tính giải thích, nó thiết lập tính qui luật và đưa những ứng xử bộ phận vào một tập hợp vốn đem lại ý nghĩa cho những ứng xử này” Aron, 1976, tr. 598. A. Giddens cho rằng, nếu hiểu khoa học như là việc sử dụng các phương pháp có tính hệ thống của các nghiên cứu thực nghiệm, là sự phân tích các dữ kiện, suy nghĩ lý thuyết và đánh giá logic về các lập luận để phát triển một bộ phận tri thức về một lãnh vực cụ thể, thì xã hội học hoàn toàn là một nỗ lực mang tính khoa học Giddens, 2009, tr. 41. Các nhà xã hội học theo thuyết cấu trúc, thuyết hệ thống, các nhà xã hội học mác-xít đều xem trọng tâm nghiên cứu của mình là đi tìm tính quy luật giữa các hiện tượng xã hội. Tuy nhiên, phải thấy nghiên cứu về con người khác với việc nghiên cứu các đối tượng trong khoa học tự nhiên nhà xã hội học có thể đặt câu hỏi và khách thể nghiên cứu có thể trả lời trực tiếp những vấn đề mà người nghiên cứu quan tâm. Đây là ưu điểm có thể làm gia tăng tính giá trị validity - nghiên cứu có thực sự đo lường cái nó muốn đo lường không và tính đáng tin cậy reliability - các nhà nghiên cứu khác cũng có thể áp dụng và đi đến cùng những kết luận của nghiên cứu xã hội và của khoa học xã hội nói chung. Nhưng mặt khác, khách thể nghiên cứu của xã hội học là những con người, nên có “tính phản ứng” - có nghĩa là không ứng xử bình thường khi biết đang bị nghiên cứu và có thể đưa ra ứng xử, câu trả lời không trung thực. Đây là “khả năng” mà những đối tượng của khoa học tự nhiên không thể có. Cũng chính vì vậy có những nhà xã hội học đã nói đến “lời nguyền”, “tai họa” malédiction của các khoa học về con người là chúng có liên quan đến một “đối tượng biết nói” “un objet qui parle”. Do đó, có nguy cơ từ cả hai phía, chủ thể và khách thể nghiên cứu, là đưa ra các “tiền khái niệm” prénotion, các định kiến làm lệch lạc thông điệp trao đổi Bourdieu, Chamboredon, Passeron, 1968, tr. 64. P. Bourdieu cũng nói đến các quy luật, nhưng ông tương đối hóa tầm ảnh hưởng của chúng “Trong thực tế, khoa học phải biết rằng nó chỉ ghi nhận, dưới hình thức của các qui luật mang tính khuynh hướng, cái logic vốn là đặc trưng của một trò chơi nào đó, vào một thời điểm nhất định. Trò chơi có lợi cho những kẻ đang thống trị cuộc chơi, những kẻ, trên nguyên tắc cũng như trong thực tế, đang xác định các quy tắc của cuộc chơi” Bourdieu, 1984, tr. 45. 3. TRI THỨC XÃ HỘI HỌC VÀ HÀNH ĐỘNG TÍNH THỰC TIỄN, TÍNH PHÊ PHÁN VÀ TÍNH TRUNG LẬP Tính thực tiễn và trách nhiệm của nhà xã hội học Quan điểm của các nhà xã hội học mác xít là rõ ràng, Marx viết về luận đề thứ XI trong Luận đề về Feuerbach như sau "Các nhà triết học chỉ diễn giải thế giới khác nhau; vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới". Luận đề này được các nhà nghiên cứu mác-xít áp dụng cho cả xã hội học. Durkheim cũng từng viết “Chúng tôi cho rằng những nghiên cứu của chúng ta không đáng mất công một giờ nếu chúng NGUYỄN XUÂN NGHĨA – XÃ HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 26 chỉ có lợi ích tư biện. Nếu chúng ta kỹ lưỡng phân ra các vấn đề lý thuyết và các vấn đề thực tiễn, không phải nhằm bỏ qua những vấn đề sau này ngược lại, chính nhằm giải quyết chúng tốt hơn” Durkheim, 1986, tr. XXXIX. Nói về trách nhiệm và vai trò của nhà xã hội học, Durkeim khẳng định “Các nhà văn và nhà bác học đều 2là công dân, vì vậy rõ ràng họ có bổn phận nghiêm ngặt phải tham gia đời sống công cộng. Vấn đề phải biết là dưới hình thức nào, biện pháp nào... Theo suy nghĩ của tôi, hành động của chúng ta thể hiện, nhất là, thông qua sách vở, hội thảo, các công trình giáo dục quần chúng. Trước hết, chúng ta phải là những nhà tư vấn, những nhà giáo dục. Vai trò của chúng ta là nhằm giúp đỡ những người cùng thời với chúng ta nhận ra chính mình trong ý tưởng và trong cảm xúc của họ hơn là nhằm quản lý họ...” Durkheim, 2002, tr. 41-42. Từ in nghiêng là của Durkheim. Sau này, Bourdieu cũng lập lại ý tưởng trên “Xã hội học không đáng mất công một giờ, nếu nó chỉ có mục đích khám phá những mánh lới giật dây làm cho những cá nhân mà nó quan sát cử động, nếu xã hội học quên rằng nó có liên quan đến những con người, cho dù họ, cũng giống như các con rối, chơi trò chơi mà không biết các quy tắc, tóm lại, nếu nó không cho mình nhiệm vụ khôi phục lại cho những con người này ý nghĩa hành vi của họ” Bourdieu, 2002, tr. 128. Tri thức xã hội học, như vậy, có vai trò giải phóng và nó cung cấp các phương tiện để tác động hiệu quả lên thực tại xã hội. Chính vì vậy mà Bourdieu thường lập lại câu nói của A. Comte “Khoa học đưa đến dự kiến, dự kiến đưa đến hành động” Bouveresse, 2003, tr. 224. Để làm được điều nêu trên, xã hội học phải khám phá ra cái bị che giấu hay không che giấu qua ngôn ngữ thường ngày Bourdieu, khám phá ra ý nghĩa được che giấu đằng sau các hiện tượng xã hội Tourraine. Đó cũng là chức năng khai minh của xã hội học. Tri thức xã hội học và thực tiễn Tuy nhiên, tư cách và ứng xử của nhà khoa học và người tham gia hoạt động chính trị là không giống nhau. Weber đã nói đến việc chính trị hóa khoa học. Weber đặt vấn đề, người trí thức có ứng xử trong lãnh vực chính trị cũng như trong lãnh vực khoa học không. Và ông đưa quan điểm rõ ràng “Người ta nói, và tôi cũng tán thành, rằng chính trị không có chỗ đứng trong giảng đường của một trường đại học” Weber, 1963, tr. 79. Ông cũng thêm rằng, những nhà tiên tri, những nhà chính trị mị dân không thể có một vị thế trong trường đại học và phải nói với họ rằng “Hãy đi ra đường phố và diễn thuyết với quần chúng” Weber, 1963, tr. 82. Theo ông, giảng đường là nơi cung cấp những tri thức khách quan, khoa học và giảng viên không được lợi dụng để áp đặt những chọn lựa, những xác tín ý hệ của riêng mình cho người học. Ông khẳng định “Tôi sẵn sàng cung cấp cho quý vị bằng chứng thông qua các công trình của các sử gia của chúng ta rằng, mỗi khi một nhà khoa học đưa ra can thiệp bằng sự phê phán giá trị của riêng mình, thì không còn có sự thông hiểu toàn diện về các sự kiện” Weber, 1963, tr. 82 . 3Thế nào là thực tiễn và việc đòi hỏi xã hội học phải thực tiễn, phải phục vụ xã hội có phù hợp với chức năng phê phán của xã NGUYỄN XUÂN NGHĨA – XÃ HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 27hội học không? Bourdieu đưa ra quan điểm của mình “Đòi hỏi nó xã hội học phải phục vụ cái gì đó, chính là luôn luôn đòi hỏi nó phải phục vụ quyền lực. Trong khi chức năng khoa học của nó là thấu hiểu xã hội mà việc khởi đầu là nghiên cứu quyền lực. Một động tác không trung lập về mặt xã hội. Và không nghi ngờ gì nó thực hiện một chức năng xã hội. Trong số các lý do khác, không có quyền lực nào không nhờ một phần hiệu quả của nó do thiếu hiểu biết về những cơ chế đã đặt nền tảng cho nó” Bourdieu, 1984, tr. 28. Tri thức xã hội học tính phê phán và tính trung lập Lịch sử cho thấy các nhà xã hội học luôn luôn có một chọn lựa khó khăn giữa hai cực về chức năng của xã hội học hoặc đứng về quan điểm phê phán hoặc đề cao tính trung lập của xã hội học. Nếu chức năng của xã hội học là bóc trần quyền lực thì ta hiểu rằng sự tồn tại của nó luôn bị đe dọa, trừ phi nó tự nhận là “trung lập” Duran &Weil, 2002, tr. 726. Bourdieu một mặt đòi hỏi xã hội học phải gắn với thực tiễn, mặt khác theo ông nhà xã hội học khác các “kỹ sư xã hội” ingénieurs sociaux. Nhà xã hội học phải tuân theo chức năng khoa học của xã hội học, phải theo tinh thần phê phán triệt để, không là công cụ của bất cứ kẻ nào. Trong khi những “kỹ sư xã hội” làm việc theo đơn đặt hàng của những người sử dụng họ. Duran và Weil cũng phân biệt các nhà xã hội học thuộc môi trường đại học sociologues universitaires và những nhà xã hội học thực tiễn sociologues praticiens. Những nhà xã hội học thực tiễn thường liên quan đến những người “đặt hàng”, do đó các hướng nghiên cứu của họ đã được đặt định và một phần kết quả nghiên cứu bị chi phối bởi khách hàng. Ngược lại, những nhà xã hội học thuộc môi trường đại học, với cơ chế tự chủ thật sự, có sự rộng rãi hơn trong việc chọn lựa đối tượng nghiên cứu và trong việc trình bày những kết quả của mình. Nhưng công trình của họ cũng có nguy cơ rơi vào những hiện tượng xã hội không “thời thượng” và không được biết đến Duran & Weil, 2002, tr. 726. Tuy nhiên, ngay cả các nhà xã hội học thực tiễn, với tư cách là nhà xã hội học chân chính, khi nghiên cứu theo “các đơn đặt hàng”, họ vẫn gặp nhiều khó khăn. Bởi lẽ, khi lý giải vấn đề nghiên cứu đặt ra, nhà xã hội học phải phân tích kết cấu các quan hệ xã hội giữa các tác nhân, các tầng lớp, phân tích các thỏa hiệp, xung đột, cái được, cái mất và như vậy là phải đụng đến quyền lực đang thống trị. Chính vì vậy mà người ta e dè xã hội học. Xã hội học là một “khoa học quấy rầy” Bourdieu. R. Sainselieu, một nhà xã hội học tổ chức nổi tiếng, khi làm tư vấn cho một cơ quan, đã nói “Các anh muốn duy trì bộ máy quan liêu. Mặc kệ các anh, điều đó không liên quan gì đến tôi. Các anh cứ duy trì, nhưng các anh sẽ chết vì nó. Cứ duy trì, nhưng đừng đòi hỏi tôi làm sao đồng thời có thể duy trì bộ máy quan liêu, vừa phát huy sáng kiến, sáng tạo” Duran & Weil, 2002, tr. 717. Sự phân loại của Bourdieu và Duran đều dựa trên vị trí xã hội, nhưng theo G. Rocher, cả hai loại nhà xã hội học này đều không thể tránh nguy cơ của ý hệ “Người ta có thể tìm thấy trong xã hội học dấu vết của mọi ý hệ và ta có thể nói nó đã phục NGUYỄN XUÂN NGHĨA – XÃ HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 28 vụ cho tất cả ông chủ quyền lực tại chức, những người phản động, những người cải cách ôn hòa, những người tiến bộ” Rocher, 1970, tr. 290; Duran & Weil, 2002, tr. 726. Cũng trong ý hướng trên, Mendras phát biểu “...Phải trung thực báo trước với độc giả rằng, mọi phân tích khoa học tốt, cho dù nhà xã hội học có muốn hay không, đều đồng thời là một phân tích mang tính ý thức hệ” Mendras, 2001, tr. 250. 4. VÀI NÉT VỀ VIỆC SẢN XUẤT RA TRI THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC XÃ HỘI HỌC Ở VIỆT NAM Mặc dù xã hội học là một ngành học còn non trẻ ở Việt Nam, nhưng vai trò của tri thức xã hội học thông qua các công trình nghiên cứu ở Việt Nam là rõ ràng và tích cực. Các nghiên cứu xã hội học đã đóng góp cho việc hoạch định các chính sách, chương trình, dự án, hoạt động của nhà nước, các tổ chức xã hội và cả tư nhân. Ý kiến của các nhà xã hội học ngày càng có giá trị các bài viết mang tính thời sự về những vấn đề xã hội hiện nay đều có xu hướng trích dẫn ý kiến của các nhà xã hội học. Nhìn chung, nhiều công trình mạnh dạn thực hiện chức năng phản biện, phục vụ lợi ích chung, nhưng cũng có những nghiên cứu, mang tính thuyết minh, nhằm lợi ích cục bộ của một thiểu số nào đó ví dụ các phê bình về tính không khách quan của các khảo sát gần đây về game online. Cũng có những công trình nói lên được tiếng nói của những nhóm thiểu số như phụ nữ, trẻ em. Thừa nhận vai trò tích cực của tri thức xã hội học ở Việt Nam hiện nay, nhưng đồng thời cũng phải thấy việc sản xuất ra các tri thức trên cũng có một số vấn đề - Một số nhà nghiên cứu phê bình các nghiên cứu xã hội học ở Việt Nam chưa chú trọng những vấn đề về nhận thức luận và phương pháp luận; ưu tiên mô hình thiết kế định lượng trong nghiên cứu đã dẫn đến “hội chứng định lượng” trong nghiên cứu xã hội học Mai Huy Bích, 2003; Nguyễn Xuân Nghĩa, 2006. Trong khi một số tác giả khác nhận định nghiên cứu trong khoa học xã hội Việt Nam nói chung thiên về định tính Nguyễn Văn Tuấn, 2011. - Nghiên cứu xã hội học ở Việt Nam chưa được nối liền với xã hội học thế giới. Rất ít bài về khoa học xã hội được đăng trên các tạp chí quốc tế. Tại hội thảo khoa học quốc tế “Khoa học xã hội thời hội nhập” diễn ra tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia TPHCM ngày 15/2/2011, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Tuấn, Trường Đại học New South Wales, Úc - đã phát biểu “Một điều rất nghịch lý ở Việt Nam là các nghiên cứu về khoa học xã hội hiện diện trên các tạp chí trong nước rất nhiều nhưng lại xuất hiện rất ít trên các tạp chí khoa học quốc tế. Ví dụ, năm 2004 có tới bài báo khoa học được đăng trên tạp chí và kỷ yếu trong nước thì có đến bài về khoa học xã hội. Trong đó chỉ chưa tới 10 bài về khoa học xã hội được đăng trên tạp chí khoa học quốc tế. Thống kê giai đoạn 1996-2005 cho thấy, trong tổng số bài báo khoa học từ Việt Nam trên các tạp chí quốc tế thì chỉ có 69 bài chiếm khoảng 2% liên quan đến khoa học xã hội” Nguyễn Văn Tuấn, 2011. - Phần lớn các nghiên cứu ở Việt Nam thiếu sót vấn đề xem xét tổng quan tài liệu literature review vì chưa coi tri thức là sự NGUYỄN XUÂN NGHĨA – XÃ HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 29tích lũy các hiểu biết Bùi Ngọc Hoàn4, 2012 và phần nào do tính không trung thực trong nghiên cứu khoa học. - Các đề tài nghiên cứu là những đề tài cá biệt của Việt Nam ít được đặt trong bối cảnh chung của kiến thức xã hội học. - Các nghiên cứu xã hội ở Việt Nam ít sử dụng các lý thuyết hay các hệ hình quy chiếu do đó không đi xa hơn việc mô tả các sự kiện thực tế, chưa đi đến việc giải thích bằng kiểm định các giả thuyết. Vì vậy, nhiều nghiên cứu chỉ mang tính thông tin chưa đi đến việc giải thích và thông hiểu Mai Huy Bích, 2003, tr. 71; Nguyễn Xuân Nghĩa, 2006, tr. 17; Bùi Ngọc Hoàn, 2012, tr. 77-78. - Về phương pháp, nhiều nghiên cứu thường không trình bày rõ các bước đi của nghiên cứu; mẫu nghiên cứu định lượng nhỏ; sử dụng các kỹ thuật thống kê mô tả đơn giản, chưa sử dụng các kỹ thuật đa biến Nguyễn Xuân Nghĩa, 2006, tr. 17; Nguyễn Văn Tuấn, 2011; Bùi Ngọc Hoàn, 2012, tr. 77-78. Tóm lại, những điều trình bày trên cho thấy tri thức xã hội học gắn liền với vị thế của những tác nhân sản xuất ra chúng, đây là những con người trong những thời điểm và không gian nhất định, nên bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể. Do đó, tri thức xã hội học không có tính tuyệt đối mà chỉ tiếp cận dần chân lý “Đặt chủ thể của khoa học trong lịch sử và xã hội không có nghĩa là tự buộc mình với chủ nghĩa tương đối. Chính việc làm nổi bật các điều kiện của tri thức phê phán về những giới hạn của tri thức là điều kiện cho tri thức thật” Bourdieu, 1984, tr. 72. Và chỉ có tri thức thật mới có thể có được tiếng nói thuyết phục trong đời sống xã hội ngày nay. CHÚ THÍCH. 1 Cách dịch thuật ngữ Wertfreiheit» của Weber là Neutralité axiologique» qua tiếng Pháp của J. Freund, mà tiếng Việt lại dịch là “tính trung lập về mặt giá trị” bị phê phán là không chính xác. Sau này Isabelle Kalinowski dịch là “sự không áp đặt các giá trị” la non-imposition des valeurs. Có nghĩa là, không phải nhà xã hội học trung lập về mặt giá trị ví dụ giữa giá trị dân chủ và độc tài, nhà xã hội học có thể có chọn lựa về mặt giá trị, nhưng không áp đặt giá trị của mình lên người khác trong môi trường học thuật. Xin xem Corcuff, 2011. 2 Durkheim và một số nhà xã hội học thường sử dụng từ “nhà bác học” le savant. Ở đây ta hiểu là người trí thức nói chung, trong đó có nhà xã hội học. 3 Weber phân biệt rất rõ ứng xử của nhà trí thức trong môi trường đại học và ứng xử ở đời thường. Ở đời thường, họ có thể tham gia chính trị, như Weber là thành viên sáng lập Đảng Dân chủ Đức, ông cũng tham gia viết bản thảo Hiến pháp của Weimar 1919. 4 Giảng viên đại học Tennessee, Knoxville, Mỹ. Tác giả có một số phê bình chưa hoàn toàn chính xác về xã hội học Việt Nam, bởi lẽ trong tài liệu tham khảo của tác giả không thấy có tên Tạp chí Xã hội học, Tạp chí Khoa học xã hội và các luận văn, luận án xã hội học ở Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aron, R. 1967. Les Étapes de la Pensée Sociologique. Paris Gallimard. 2. Boudon, R. et al., 2003. Dictionnaire de Sociologie, Paris Larousse. 3. Bourdieu P., Chamboredon J-C, Passeron J-C. 1968. Le Métier de Sociologue. Paris NGUYỄN XUÂN NGHĨA – XÃ HỘI HỌC VỀ TRI THỨC VÀ… 30 Mouton-Bordas. 4. Bourdieu P. [1980], 1984. Questions de Sociologie, Minuit. 5. Bourdieu P. .2002. Le bal des célibataires, Paris Éd. du Seuil, 6. Bouveresse, J. 2006. Pierre Bourdieu le Savant et le Politique. Trong Muller, H-P. Sintomer Y. Pierre Bourdieu, Théorie et Pratiques. Perspectives Franco-Allemandes. Paris La Découverte. 7. Bùi Ngọc Hoàn. 2012. Nghiên cứu Xã hội học. Thời đại mới. Số 25. Tháng 7/2012. 8. Corcuff, P. 2011. Le savant et le politique. Sociologies [En ligne], Expériences de recherche, Régimes d'explication en sociologie, mis en ligne le 06 juillet 2011. Truy cập ngày 22/12/2012. 9. Duran J-P, Weil R. 2002. Sociologie Contemporaine, Paris Vigot. 10. Durkheim, É. [1893], 1986. De la Division du Travail Social. Paris PUF. 11. Durkheim, É. [1912], 1991. Les Formes Élémentaires de la Vie Religieuse. Paris Livre de Poche. 12. Durkheim, É. 2002. L’Élite intellectuelle et la démocratie. Trong L’Individualisme et les Intellectuels. Paris Mille et une Nuits. 13. Friedmann, G., Febvre L. Société et Connaissance Sociologique. Annales, Économies, Sociétés, Civilisations, 15e annee, 1960. 14. Giddens, A. 1997, 2009. Sociology, 3rd & 5th. Cambridge Polity Press. 15. Mai Huy Bích. 2003. Hai mươi năm Viện Xã hội học Một cảm nhận riêng. Tạp chí Xã hội học. Số 484. 16. Marshall, G. 1998. Dictionary of Sociology. Oxford University Press. Bản dịch tiếng Việt của các tác giả Bùi Thế Cường, Đặng Thị Việt Phương, Trịnh Huy Hóa. 2010. Từ điển Xã hội học Oxford. Hà Nội Nxb. Đại học Quốc gia. 17. McArthy, E. D. 2000. Sociology of Knowledge. Trong Borgatta Montgomerry R. Encyclopedia of Sociology, USAMcMillan. 18. Mendras H. 2001. Éléments de sociologie. Paris Armand Colin. 19. Nguyễn Văn Tuấn. Khám phá trong nghiên cứu khoa học xã hội qua các phương pháp định lượng. Trong Hội thảo Khoa học xã hội Việt Nam thời hội nhập. TPHCM 15/12/2011. Xin xem 20. Nguyễn Xuân Nghĩa. Vài suy nghĩ về khuynh hướng và các loại hình trong nghiên cứu xã hội. Tạp chí Khoa học Xã hội. Số 10/2006. 21. Nguyễn Xuân Nghĩa. Xã hội học đòi hỏi và thực tiễn - Vài thực hành tự phản tư. Tạp chí Khoa học Xã hội. Số 02126- 2009. 22. Weber, M. 1963. Le Savant et le Politique. Được giới thiệu bởi R. Aron. Bản dịch của J. Freund. Paris Union générale d’édition. 23. Weber, M. 1965. Essais sur la Théorie de la Science. J. Freund dịch và giới thiệu. Paris Plon. 24. Weber, M. 2000. Remarque préliminaries. Trong L’Éthique Protestante et l’Esprit du Capitalisme. Paris Champs/ Flammarion. ResearchGate has not been able to resolve any citations for this BourdieuBourdieu P..2002. Le bal des célibataires, Paris Éd. du Seuil,Nghiên cứu Xã hội học. Thời đại mớiBùi Ngọc HoànBùi Ngọc Hoàn. 2012. Nghiên cứu Xã hội học. Thời đại mới. Số 25. Tháng 7/ de recherche, Régimes d'explication en sociologieP CorcuffCorcuff, P. 2011. Le savant et le politique. Sociologies [En ligne], Expériences de recherche, Régimes d'explication en sociologie, mis en ligne le 06 juillet 2011. Truy cập ngày 22/12/2012.
Tóm tắtSinh thời, Norbert Wiener, cha đẻ của Điều khiển học Cybernetics đã dự báo "Chúng ta đang làm biến đổi môi trường của ta tận gốc rễ đến mức rồi ta phải tự biến đổi chính mình để tồn tại được trong môi trường mới đó".Quả thực, mấy chục năm qua, dưới tác động của những tiến bộ vũ bão của khoa học và công nghệ, mà nổi bật là công nghệ thông tin, môi trường kinh tế và xã hội đã có những biến đổi căn bản, đang chuyển biến tới một môi trường về cơ bản là mới của nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức. Con người tạo ra môi trường đó; nhưng rồi đến lượt mình, chính sự phát triển khách quan của môi trường đó, với tất cả tính phức tạp, bất định và thường xuyên biến động của mình, lại đòi hỏi con người phải tự biến đổi để có thêm nhiều tri thức mới, nhiều năng lực trí tuệ mới khác về chất so với các năng lực cũ, nhằm giúp mình thích nghi với môi trường mới, có khả năng hành động linh hoạt trong cái phức tạp, bất định và thường xuyên biến động đó của môi trường mới. Công nghệ thông tin đang tích cực thúc đẩy hoạt động tri thức trong mọi lĩnh vực, hỗ trợ đắc lực cho con người phát huy tiềm năng trí tuệ để tồn tại và phát triển trong môi trường mới bài báo cáo, tác giả sẽ trình bày một số nhận thức khoa học về những chuyển biến nói trên, và nêu một vài suy nghĩ về việc tìm kiếm con đường hội nhập của chúng ta từ thực trạng hiện nay vào xu thế chuyển biến chung của thế giới đến một nền kinh tế và xã hội tri thức khi bước sang thế kỷ Môi trường đang thay đổi nhanh chóngSự ra đời của máy tính điện tử cùng với việc xuất hiện các khoa học về thông tin, điều khiển, hệ thống,... vào những năm giữa thế kỷ này là những mầm mống báo hiệu cho một kỹ nguyên phát triển mới của xã hội loài người, như Norbert Wiener đã dự báo "Chúng ta đang làm biến đổi môi trường của ta tận gốc rễ...". Nhưng, "biến đổi môi trường đến mức rồi ta phải tự biến đổi chính mình để tồn tại được trong môi trường mới đó" thì là một dự báo mà đương thời ít ai tính đến. Những biến đổi trong môi trường kinh tế, xã hội trên thế giới trong mấy chục năm qua, đặc biệt trong thập niên cuối cùng của thế kỷ này, đã xảy ra càng lúc vàng nhanh chóng, dồn dập, càng lúc càng đầy tính bất ngờ và không lường trước trong lĩnh vực máy tính, thực tế phát triển đã nhanh chóng vượt xa mọi dự đoán của các chuyên gia có thẩm quyền năm 1943, Thomas Watson, chủ tịch IBM, dự đoán sẽ có một thị trường thế giới với khoảng dăm bảy máy tính; năm 1949, máy tính "trong tương lai" được dự đoán sẽ còn nặng khoảng 1 tấn rưỡi' năm 1977, Ken Olson, chủ tịch và là người sáng lập DEC, còn nói "không có lý do gì để mỗi người phải có một máy tính ở nhà mình", Bill Gates vào năm 1981 còn phỏng đoán "640k là đủ cho mọi người". Và chính Bill Gates cũng thừa nhận là thực tế thay đổi nhanh hơn nhiều phỏng đoán, nhiều chuẩn mực, vì vậy, ngày nay trong công nghệ phần mềm, "chuẩn mực chính là sự thay đổi", liên tục thay đổi để cải tiến, để thích nghi với yêu cầu luôn thay đổi của thị mươi năm trước, khi máy tính điện tử đã được sử dụng ngày càng nhiều vào các lĩnh vực kinh tế xã hội, thúc đẩy cuộc "cách mạng quản lý", người ta đã bắt đầu nói đến tin học hóa xã hội và một "xã hội thông tin" trong tương lai, nhưng những điều hình dung về tương lai đó còn mang tính dự phóng; vào thập niên 80 khi lần lượt các thế hệ máy vi tính ra đời, với tốc độ tăng năng lực theo luật Moore và với khả năng cung cấp cho thị trường mỗi năm hàng triệu, hàng chục triệu rồi hàng trăm triệu máy, thì hình thù của một cơ sở hạ tầng cho "xã hội thông tin" mới bắt đầu rõ nét. Và, bước chuyển biến có ý nghĩa quyết định nhất, thuyết phục nhất, khẳng định sự xuất hiện là sự phát triển bùng nổ của mạng Internet toàn cầu với những bước đi lừng lững vào sâu mọi ngõ ngạch của đời sống con người, bất chấp mọi rào ngăn và cản Internet, nối hàng trăm triệu máy tính của người dùng, có thể truy cập đến hàng triệu nguồn cung cấp thông tin trên khắp thế giới, không còn chỉ là một phương tiện kỹ thuật đơn thuần, mà đã trở thành một môi trường mới của mọi hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa... có tác động rất lớn đến các chuyển biến nhanh chóng của đời sống con người trên khắp hành tinh chúng ta. Và đó mới chỉ là những bước đầu để khẳng định "xã hội thông tin" đã là một hiện thực. Con đường hoàn thiện nó, có những điều dự đoán được và vô số điều không dự đoán được, còn trải dài ở phía trước, hứa hẹn nhiều bất ngờ mới cho thế kỷ mà ta sắp bước vì thế, có lẽ không lấy làm lạ và vào thập niên cuối thế kỷ 20 này, trong bề bộn của những biến động chính trị và xã hội sâu sắc, những tăng trưởng thần kỳ xen lẫn những khủng hoảng của nhiều nền kinh tế, sự xuất hiện của thương mại điện tử, của xu thế toàn cầu hóa kinh tế, nổi bật lên những lời kêu gọi hấp dẫn về tương lai gần của một nền kinh tế tri thức, của một xã hội tri thức, không chỉ cho các nước giàu đã phát triển, mà là cho mọi quốc gia, những kêu gọi cùng với các khuyến nghị và cảnh báo từ các cơ quan quốc tế như Liên hiệp quốc, Ngân hàng thế đi đến những chuyển biến hiện nay, loài người đã trải qua những bước phát triển và những thử thách liên tục trong suốt con đường thế kỷ 20. Một thế kỷ của sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, của những thử thách đối với các hình thức tổ chức và quản lý xã hội, của các phát minh vĩ đại về khoa học và công nghệ, của những tiến triển trong nhận thức con người về kinh tế, xã hội và nhân văn... đã chuẩn bị cho bước chuyển biến hiện nay, được xác định là bước chuyển biến từ xã hội công nghiệp lên xã hội thông tin và tri thức. Có thể đối với một người sống trong các nước công nghiệp phát triển, từng trải nghiệm qua những chặng đường phát triển đó, thì việc chờ đón bước chuyển biến hiện nay là tự nhiên, nhưng đối với chúng ta, sống trong một nước còn chậm phát triển, chưa có điều kiện của sự trải nghiệm đó, thì những thuật ngữ như nền kinh tế thông tin, xã hội tri thức... còn là khá xa vời, và tất nhiên sẽ không khỏi ngỡ ngàng khi dòng chảy của những điều "xa với" đó bỗng ập đến lôi cuốn chúng ta đòi hội thực chất của những biến đổi cơ bản về kinh tế xã hội là gì, vai trò của "tri thức" trong quá trình biến đổi đó đã có những chuyển biến như thế nào, và đã có những tiến triển gì trong nhận thức con người về những biến đổi đó, từ đó chúng ta cần chuẩn bị gì để có thể tự tin đi vào cuộc hội nhập vì sự phát triển của đất nước và dân tộc ta? Những câu hỏi lớn và cấp bánh, tôi mong được tìm hiểu đôi phần, nhưng tất nhiên không dàm có tham vọng đưa ra câu trả lời. Với mong muốn được cùng trao đổi ý kiến, tôi xin trình bày dưới đây một số nhận thức hạn hẹp về các vấn đề nói trên, và đặc biệt về vai trò của sự phát triển Công nghệ thông tin trong các vấn đề Sự chuyển biến tới nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức1. Tri thức trong quá trình phát triển kinh tế xã hộiSự phát triển của tri thức gắn lền với lịch sử phát triển của loài người. Con người tạo ra tri thức và sử dụng tri thức để sống, để phát triển và để hoàn thiện cuộc sống của mình. Ta từng được học rằng con người cần tri thức để nhận thức thế giới và để tác động lên thế giới nhắm phát triển sản xuất làm ra của cải phục vụ cuộc sống con người. Nói gọn theo cách của Peter Drucker tri thức được dùng để sống to being, rồi tiếp đó, để làm to doing. Và đến giai đoạn phát triển hiện nay, tri thức có thêm một chức năng mới, càng ngày càng rõ nét và có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với kinh tế xã hội, đó là dùng tri thức để tạo tri thức applying knowledge to knowledge, chức năng mới này là nhân tố cơ bản làm nên bước chuyển biến tới nền kinh tế tri thức và xã hội tri xa xưa, tri thức thường được coi như của riêng của các bậc thức giả, tri thức là dấu hiệu của đời sống tinh thần, đạo đức, trí tuệ của một người; tri thức là để cho mình, để chứng tỏ phẩm giá của mình, tức là để sống, để khẳng định sự tồn tại của mình. Dù có những hiểu biết giúp con người làm ra kỹ thuật này kỹ thuật nọ, góp phần hữu ích cho cuộc sống, nhưng có lẽ do thiếu tính hệ thống và không đủ chặt chẽ về lôgich, nên chúng thường ít được tôi trọng, thậm chí không được xem là tri thức. Phải đợi đến cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp thì tri thức mới thực sự được dùng để làm, để tạo ra kỹ thuật, công nghệ, để tìm kiếm và khai thác tài nguyên, để chế tạo công cụ sản xuất, để làm ra sản phẩm...Khoa học phát triển, cung cấp các tri thức khoa học ngày càng phong phú, làm cơ sở cho các sáng chế kỹ thuật, phát triển các ngành công nghiệp, tri thức được thể hiện trong việc liên tục phát triển sức sản xuất; và về sau, vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chức năng đó còn được thể hiện ở chỗ tri thức được dùng để nghiên cứu bản thân việc làm lao động, phân tích lao động và tổ chức một cách khoa học các quá trình lao động trong sản xuất công nghiệp. Điều đó đã khởi đầu cho một cuộc "cách mạng năng xuất" trong nhiều nước công nghiệp phát triển, mà nổi bật là phương pháp nổi tiếng về quản lý khoa học các quá trình sản xuất do đề tế thị trường càng phát triển thì vai trò của hoạt động kinh doanh càng quan trọng, trong nhiều trường hợp là quan trọng hơn cả hoạt động sản xuất trực tiếp. Và vì vậy, trong nền kinh tế thị trường, ưu thế thường thuộc về các tài năng kinh doanh, đó là các tài năng biết phát hiện và tận dụng cơ hội, nắm bắt các ý tưởng mới, tổ chức và sử dụng khéo léo các nguồn lực... người ta thường kể, Edison có hàng trăm bằng sáng chế, trong đó có sáng chế nổi tiếng về sợi dây tóc của bóng đèn điện, nhưng ông ta xem phát minh lớn nhất của mình là tổ chức labo nghiên cứu như là một hình thức công nghiệp hóa việc nghiên cứu khoa học và các hoạt động trí tuệ; Rockefller trở thành ông vua dầu hỏa không phải ở tài tìm dầu mà là ở tài hiểu được nên đưa dầu ra thị trường như thế nào và làm thế nào để kiểm soát được thị trường lý kinh doanh trở thành một năng lực và phẩm chất hết sức quan trọng trong kinh tế thị trường, và ở đây, tri thức bắt đầu thực hiện một chức năng mới, không phải chỉ để sống, để làm, mà là dùng tri thức để tạo tri thức. Đó là việc dùng tri thức nhằm giúp ta tìm cách làm thế nào sử dụng có hiệu quả những tri thức vốn có và tìm thêm những tri thức mới để tạo ra giải pháp và quyết định, tức là những sản phẩm tri thức của quản Sự chuyển biến tới nền kinh tế thông tin và tri thứcNền sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường càng phát triển thì hoạt động kinh doanh và quản lý kinh doanh càng trở nên phức tạp, đòi hỏi nhiều thông tin và tri thức, và tất nhiên cũng càng có ý nghĩa quyết định. Nội dung chủ yếu của hoạt động kinh doanh là điều khiển dòng chảy của các nguồn lực để đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất có thể. Khi thị trường rộng mở. Và trong môi trường đó, các nguồn lực có tinh năng động và linh hoạt cao như nguồn vố tài chính trở thành tác nhân dễ được điều khiển và dễ mang lại những tác động quan trọng đối với kinh tế. Những biến động kinh tế trong thời gian qua đã cho ta thấy rõ việc thay đổi dòng chảy của nguồn vốn đầu tư có tác động quyết định như thế nào đến số phận của các nền kinh tế. Và như người ta thường nói, ở giai đoạn phát triển hiện nay, nền kinh tế thế giới đã được "tài chính hóa", và trong xu thố toàn cầu hóa hiện nay, thì toàn cầu hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ, mà đặc biệt là dịch vụ và toàn cầu hóa hoạt động tài chính là hai lĩnh vực quan trọng nhất và tiến triển nhanh thức tạo tri thức trong hoạt động thường xuyên, liên tục của quản lý kinh doanh đòi hỏi phải được tiến hành trên nền của các kho thông tin và dữ liệu phong phú phản ánh mọi mặt phức tạo, đa dạng và luôn biến động của thị trường. Và khác với tri thức để sống và để làm thường có ý nghĩa phổ quát và ổn định, tri thức ở đây thường đòi hỏi phải đáp ứng những nhu cầu trực tiếp, nhất thời, có tính chuyên biệt cho từng lĩnh vực, từng tình huống, và không nhất thiết phải thỏa mãn các tính chất đầy đủ, phi mâu thuẫn, không nhất thiết phải hoàn toàn chắc chắn, nhưng phải giúp cho người quản lý lấy những quyết định kịp thời để không bỏ lỡ thời cơ của công việc kinh phát triển vũ bảo của công nghệ thông tin và truyền thông trong vài thập niên gần đây đã tạo ra một môi trường tuyệt vời kích thích và thúc đẩy loại hoạt động tri thức tạo tri thức nói trên trong quản lý kinh doanh, và cũng trong nhiều hoạt động xã hội, văn hóa khác. Có thể nói, công nghệ thông tin và truyền thông đã làm thay đổ bản chất vai trò của thông tin và tri thức từ chỗ là tiềm năng trở thành hiện thực, từ vị trí thụ động chuyển thành một sức mạnh chủ động sáng tạo nên sự giàu có của xã hội. Chính nhờ sự lớn mạnh và phổ biến nhanh chóng của các công nghệ đó mà các nguồn thông tin, dữ liệu được thu thập, tổ chức rộng khắp, truyền đưa vào trao đổi gần như tức thời, được xử lý nhanh chóng, được khai phá và tinh luyện thành tri thức cần thiết... để kịp thời giúp cho người quản lý có được những quyết định đúng nghệ thông tin có tác động to lớn đến các ngành kinh tế, đem đến cho các ngành kinh tế sức mạnh chủ động của thông tin và tri thức, và đồng thời, bản thân nó cũng là một ngành kinh tế tri thức phát triển hết sức nhanh chóng; có thể nói đó là ngành kinh tế tri thức giữ vai trò chủ đạo trong việc chuyển biến nền kinh tế thế giới hiện nay sang nền kinh tế tri thức. Các sản phẩm của công nghệ thông tin như máy tính, các thiết bị truyền thông, các loại phần mềm, chứa trong chúng biết bao tri thức phong phú đã được tích lũy, để từ đó giúp con người tạo ra tri thức mới, và làm cho tri thức có hiệu quả trng đời sống. Và vì vậy, ngoài ý nghĩa của tri thức trong quản lý kinh doanh như trình bày ở trên, ý nghĩa củ "tri thức tạo tri thức" còn được thể hiện rõ ràng trong chính các sản phẩm của công nghệ thông Nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức trong tương laiTa đã nói đến những tiến triển của vai trò tri thức trong quá trình phát triển kinh tế xã hội loài người, và sữ chuyển biến hiện nay sang một nền kinh tế và xã hội mà thông tin và tri thức là nguồn lực có vị trí chủ đạo. Nhưng, nền kinh tế thông tin, xã hội tri thức mới ở bước đầu khẳng định sự hiện hữu. Trong tương lai, nền kinh tế đó, xã hội đó sẽ có hình thù như thế nào, khó mà tiên đoán được đầy đủ, nhất là trong một môi trường kinh tế xã hội càng ngày càng lắm đổi thay và biến động. Tuy nhiên, dù không vẽ một bức tranh tương lai để ngắm, thì con người vẫn phải dự tính và chuẩn bị cho những yêu cầu của các dự tính đó. Mà nói cho cùng thì tương lai sẽ ra sao chính là phụ thuộc vào những dự tính ngắn hạn cùng những thành công và thất bại của những dự tính đó. Trên ý nghĩa đó, khắp thế giới, từ các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Tây Âu, đến các nước đang phát triển, đều tùy theo trình độ phát triển mà có những chính sách, biện pháp nhằm xây dựng cơ sở cho nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức của vực kinh tế thông tin và tri thức là khu vực năng động nhất trong nền kinh tế của nhiều nước, đặc biệt ở các nước phát vực này bao gồmCác hoạt động kinh tế xã hội và sản xuất công nghiệp có sử dụng các dịch vụ thông tin và truyền thông;Công nghiệp nội dung content industries, mà sản phẩm là nội dung thông tin và tri thức của mọi ngành kinh tế, khoa học, văn hóa, nghệ thuật... được tổ chức, ghi chữ bằng các phương tiện cùa công nghệ thông tin như đĩa từ, CD ROM;Bản thân các ngành công nghiệp tin học và truyền thông, làm ra máy tính và phần mềm, các dịch vụ liên quan đến máy tính, các thiết bị và dịch vụ viễn thông, các linh kiện vi điện tử, các thiết bị văn phòng vực này chiếm một tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế, có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn bất kỳ khu vực nào khác, và cũng tạo thêm được nhiều việc làm nhất. Theo số liệu của các nước trong Cộng đồng châu Âu EU thì các doanh nghiệp và người tiêu thụ của EU trong năm 1997 đã chi tiêu cho các sản phẩm và dịch vụ của khu vực này nhiều hơn cho các khu vực ôtô, sắt thép và hàng không cộng lại. Từ năm 1995 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP trong khu vực kinh tế thông tin này dao động trong khoảng 7,5 - 9%, trong khi tốc độ tăng trưởng GDP nói chúng là 2-3%; tốc độ tăng việc làm của khu vực này trong năm 1996 và 1997 là 7% và 8,8%, trong khi đối với toàn nền kinh tế nói chung là 0,5% và 0,6%. Việc sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tin học và truyền thông ngày càng phổ số liệu 1998 tại Mỹ cứ 100 lao động "cổ trắng" thì có 103 máy vi tính và cứ 100 dân thì có 46 máy vi tính. Các con số tương ứng này ở EU là 78 và 33. Số người dùng mạng Internet hiện nay đã vượt quá 200 triệu và vẫn tăng với tốc độ hàm mũ, thương mại điện tử mới bùng nổ vài ba năm gần đây, năm 1998 đạt doanh số 30 tỷ USD, ước tính đến 2002 sẽ đạt hơn 300 tỷ và đến 2005 sẽ đạt 1000 tỷ! Ta chú ý rằng khu vực kinh tế thông tin cũng là khu vực sản sinh ra những doanh nhân giàu có nhất thế giới; đến năm 1995, tại Mỹ, trong số 20 người giàu nhất nước có đến 14 doanh nhân trong khu vực này, đứng đầu là Bill Gates, sau đó là những tên tuổi nổi tiếng như P. Allen, chính sách và biện pháp nhằm tích cực chuẩn bị cho việc phát triển nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức ở các nước tuy có những điểm khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển của mình, nhưng cũng có nhiều điểm chung có thể xem như những yêu cầu cơ bản của kinh tế và xã hội tri thức, đó là xây dựng một kết cấu hạ tầng thông tin vững chắc và phong phú trên cơ sở phát triển mạng các xa lộ thông tin và tham gia Internet; phát triển một văn hóa kinh doanh mới dựa trên công nghệ thông tin và tri thức để tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; đào tạo lại lao động và tạo việc làm; cải tổ hệ thống giáo dục và phổ cập việc học, học liên tục, học suốt đời cho mọi người; phát triển các ngành công nghiệp nội dung; đẩy mạnh và liên tục cải cách tổ chức, Trong chính sách của nhiều nước, cũng đã đề cập đến vai trò quan trọng có tính chất đi đầu và nêu gương của các cơ quan nhà nước và khu vực công cộng trong quá trình chuyển biến sang một xã hội tri Những vấn đề mới nảy sinh của kinh tế và xã hội tri thứcThông tin và tri thức đang nhanh chóng trở thành nguồn lực chủ đạo của các nền kinh tế phát triển. Trong nhiều ngành công nghiệp, tri thức đang thay thế vốn, tài nguyên và lao động với tư cách là nhân tố cạnh tranh có tính quyết định. Tri thức chấm sâu vào mọi mặt của quá trình tổ chức và quản lý, từ việc thiết kế đến sản xuất sản phẩm, từ việc tìm hiểu nhu cầu khách hàng đến năng lực phán đoán và hành động mau lẹ để chớp lấy những cơ hội mới của kinh doanh... Công nghệ thông tin và truyền thông đã giúp thông tin và tri thức phát huy được những mặt mạnh của mình con người thâm nhập tới mọi nguồn tri thức một cách dễ dàng và kịp thời; tạo ra nhiều cơ hội hợp tác vượt qua các giới hạn về không gian, thời gian và khác biệt văn hóa; làm tăng giá trị của các nguồn tri thức do được nhân bản, cung cấp và trao đổi thuận tiện... Thông tin và tri thức còn có một thuộc tính cơ bản là nói chúng, sau khi sử dụng không những không mất đi mà càng sử dụng càng được hoàn thiện để tăng thêm giá các thuộc tính nói trên của thông tin và tri thức, các nguồn lực này có thể mang lại những "tỷ suất lợi nhuận tăng" increasing returns cho các ngành kinh tế tri thức, và đồng thời với tính năng động, dễ đổi thay và biế động của mình, chúng cũng có thể mang lại nhiều đổi thay và biến động cho đời sống kinh tế. "Tài chính hóa", kinh tế, rồi tiếp thêm "tri thức hóa" kinh tế, nền kinh tế thị trường tiếp nhận liên tiếp những tác nhân chủ đạo dễ gây những thay đổi và biến động, làm cho nền kinh tế và xã hội từ nay càng trở nên có nhiều khả năng biến động hơn, có nhiều tính bất định hơn. Phát triển và tiến bộ không ngừng trong bất định và biến động liên tiếp, phải chăng đó là một xu thế của kinh tế, xã hội trong hiện tại và tương lai?Con đường tiến đến kinh tế thông tin và xã hội tri thức tất nhiên không phải toàn những điều tốt đẹp. Nhiều vấn đề xã hội mới sẽ nảy sinh, nhiều mâu thuẫn trong nội bộ từng quốc gia và trong quan hệ quốc tế sẽ đòi hỏi được giải quyết. Xã hội tri thức hy vọng sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, nhưng chắc không thể cho mọi người những năng lực ngang nhau. Hiện nay, ở nhiều nước phát triển, lực lượng lao động trong các khu vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp chỉ còn dưới 30%, còn hơn 70% là trong các khu vực thông tin và dịch vụ. Có thể hình dung tương lai, đại đa số lao động xã hội sẽ làm việc trong hai khu vực thông tin và dịch chất tri thức trong hai loại lao động đó có khác nhau, và từ đó có nảy sinh những xung đột mới giữa các giai tầng khác nhau của xã hội. Con đường tiến đến kinh tế tri thức và xã hội tri thức cũng không phải đồng đều cho mọi nước. Các nước chậm phát triển có thể dễ mua được máy vi tính rẻ tiền, nhưng làm sao chó thể mau chóng có năng lực và trình độ nhảy vọt, vượt qua giai đoạn? Các nước phát triển thúc giục toàn cầu hóa thương mại, nhưng toàn cầu hóa ngay trong khi quá chênh lệch trình độ phải chăng sẽ dẫn đến một tình trạng bất bình đẳng trầm trọng mới. Nhiều nhà khoa học, kinh tế và xã hội đã đề xuất kiến nghị cần xem xét việc thiết lập những quan hệ toàn cầu về xã hội song song với quá trình toàn cầu hóa kinh tế, nhưng quan hệ như thế nào là công bằng, và cơ chế nào buộc được mọi nước phải chấp nhận?Norbert Wiener 1894 - 1964 là một nhà toán học và triết học Mỹ, người lập nên ngành khoa học - điều khiển Nhận thức về một nền kinh tế và xã hội đang biến đổi1. Một lý thuyết kinh tế mới cho kinh tế tri thức?Dù mới là những bước đầu, nhưng nền kinh tế thế giới đã chuyển biến sang một giai đoạn phát triển mới, có những khác biệt rõ ràng về chất so với các giai đoạn trước. Thông tin và tri thức trở thành một nguồn lực chủ đạo của phát triển kinh tế, nhưng nguồn lực đó vận hành như thế nào, ta chưa hiểu được đầy đủ; một lý thuyết kinh tế đặt tri thức vào vị trí trung tâm của quá trình tạo ra của cải có khả năng giải thích mọi hiện tượng mới lại trong đời sống kinh tế là cần thiết, nhưng ta chưa có đủ kinh nghiệm để hình thành một lý thuyết như vậy. Ta chỉ biết rằng một lý thuyết như vậy, nếu có, chắc phải khác nhiều với những lý thuyết đã có, cổ điển hay tân-cổ điển, Keynes hay tân Keynes. Các giả thiết thường được dùng trong các lý thuyết đã có như giả thiết về cạnh tranh hoàn toàn và đầy đủ, giả thiết về trọng cung hay trọng cầu... khó thích hợp để làm căn cứ cho lý thuyết có một mẫu số chung cho các loại tri thức khác nhau để có thể hình dung một cách đánh giá định lượng tri thức, do đó một mô hình toán học cho kinh tế tri thức còn là một điều xa vời. Làm thế nào để đánh giá được tác động và hiệu quả của tri thức trong những cải cách và đổi mới, và nói chung đánh giá được năng suất của tri thức, trong khi chi phí đầu tư cho tri thức ở các nước phát triển đã lên đến khoảng 20% GDP hàng năm? Trong sách Rethinkinh the Future, xuất bản năm 1997, hàng chục nhà khoa học hàng đầu ở Mỹ đã thảo luận về hàng loạt vấn đề cần được tư duy lại cho tương lai, tập trung quanh 3 chủ đề lớnCon đường cũ dừng ở đây, tương lai không phải là sự tiếp tục của quá khứ, thế giới đã thay đổi và kiểu tư duy tuyến tính không còn thích hợp với một thế giới phi tuyến;Thời mới đòi hỏi những cách tổ chức mới, người thắng cuộc trong thế kỷ 21 sẽ là những người có năng lực biến tổ chức của mình thành một cái gì đó linh hoạt như chiếc xe jeep, có khả năng phản ứng nhanh, chuyển hướng nhanh trong một miền đất đầy trắc trở và bất định;Rồi chúng ta sẽ đi đâu? Ta cần có một tầm nhìn, một định hướng mục tiêu về tương lai, nhưng không phải bằng cách nhìn vào một bản đồ có sẵn. Không có bản đồ nào cho miền đất chưa khám phá; thay vào đó những người đi đầu sẽ nhìn về phía trước, sáng tạo những ý tưởng mới, phát hiện những chân trời mới, vạch đường để hấp dẫn mọi người cùng duy lại trên cơ sở các phương pháp khoa học, nhưng phải là kiểu tư duy khoa học có đổi mới. Phương pháp khoa học truyền thống xem mục đích của khoa học là phát hiện chân lý, tìm kiến các qui luật để giải thích, dự đoán và điều khiển các sự kiện. Nhưng thế nào là đúng, là sai trong thế giới phức tạp của tự nhiên, của kinh tế, xã hội? Và phải chăn là hợp lý hơn nếu xem mọi lý thuyết khoa học đều có thể sai, khoa học không đi tìm cái luôn luôn đúng, mà tìm kiến các tri thức được hoàn thiện dần bằng phương pháp "thử và sai", giả thuyết và bác bỏ; mục đích của khoa học là "giải bài toán", tức là cung cấp những lời giải chấp nhận được cho những vấn đề mà con người quan Một vài cách tiếp cận tìm hiểu kinh tế và xã hội tri thứcCác hệ thống kinh tế xã hội vốn đã là những hệ thống lớn, phức tạp; hiện nay khi chuyển sang giai đoạn của kinh tế tri thức và xã hội tri thức, chúng lạu càng trở nên phức tạp hơn bội phần do tác động to lớn củanhững yếu tố thường xuyên biến động và bất định. Các lý thuyết trước đây thường tìm cách đơn giản hóa bằng các giả thuyết qui hành vi của hệ thống về các quan hệ giữa một số thành phần chủ yếu đã lược bỏ tính bất định, rồi từ đó thiết lập các mô hình, và từ nghiên cứu, phân tích trên các mô hình mà rút ra các nhận định, phán đoán, kiến nghị... Nhiều mô hình lý thuyết về kinh tế trước đây được xây dựng trên các giả thuyết về cân đối chẳng hạn cân đối cung - cầu đã là căn cứ cho việc lập kế hoạch, điều tiết thị trường Việc bỏ qua các yếu tố bất định trong một chừng mực nào đó là có thể chấp nhận để có được những mô hình bất định lại trở thành chủ yếu có tác động gần đúng các hệ thống thực tế, nhưng khi cái bất định lại trở thành chủ yếu có tác động quyết định đến hành vi của hệ thống thì việc tìm kiếm các mô hình như vậy trở thành vô lý thuyết kinh tế tân - cổ điển thường giả thiết là nền kinh tế tuân theo luật "liên hệ ngược âm" để tự điều chỉnh về trạng thái cân đối. Brian Arthur nhìn thấy rằng luật liên hệ ngược âm có cùng một hiệu quả như giả thuyết kinh tế về "tỷ suất lợi nhuận giảm" diminishing returns - trong điều kiện sản xuất hàng hóa vật chất, sản xuất càng nhiều thì có xu thế lợi nhuận thu được trên mỗi đơn vị sản phẩm sẽ giảm xuống.Trong kinh tế tri thức, khi sản phẩm hàng hóa là thông tin, tri thức và các ý tưởng, thì luật tỷ suất lợi nhuận giảm trong nhiều trường hợp lại nhường chỗ cho luật "tỷ suất lợi nhuận tăng" increasing returns. Trong các doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận tăng thì cơ chế liên hệ ngược dương cũng hoạt động để củng và tăng cường những thành tựu đạt được, và do đó không trở về trạng thái ổn định của cân đối mà có xu hướng tồn tại trong trạng thài thường xuyên bất ổn định. Hệ quả của những khảo sát như vậy có thể là Trong nền kinh tế mà luật "tỷ suất lợi nhuận giảm" chi phối thì liên hệ ngược âm hoạt động, hệ thống có xu thế đi đến ổn định và cân đối, do đó có thể quản lý bằng kế hoạch hóa; ngược lại, trong nền kinh tế mà luật "tỷ suất lợi nhuận tăng" chi phối thì liên hệ ngược dương hoạt động, hệ thống phát triển thường xuyên trong bất định, bất ổn định và không cân thực tế, các nền kinh tế là những hệ thống phức tạp và phi tuyến thường bao gồm cả hai loại liên hệ ngược, âm và dương; trong những hệ thống như vậy, có thể có nhiều những trạng thái ổn định bộ phận và hệ thống thường vận động giữa những trạng thái ổn định bộ phận có một cách không ổn định và khó mà tiên đoán được. Nhưng, theo bất định, bất ổn định, mất cân đối trong các hệ thống phức tạp của tự nhiên và kinh tế xã hội không nhất thiết ohải đi đến hỗn loạn và hủy diệt, mà các hệ như vậy thường có cấu trúc và năng lực tự tổ chức một cách tự phát spontaneously self - organizing của mình. Prigogine, và sau đó, Arthur đều xem rằng nền kinh tế là một hệ thống tự tổ chức. Chú ý rằng, trong cái hệ thống lớn là nền kinh tế, bất định, không cần đối và tự tổ chức đó, có cả con người là thành viên tích cực. Vì vậy, ở đây con người không phải ngoài hệ thống để lập kế hoạch cho sự phát triển của nó, mà tham gia trực tiếp vào sự phát triển đó bằng khả năng thích nghi, năng lực sáng tạo và đổi mới của trò tham gia trực tiếp của con người với tư cách là thành viên đang tư duy thinking participant trong các hệ thống kinh tế đã được nhà tài chính và kinh tế học nổi tiếng phân tích một cách độc đáo trong lý thuyết về tính phản xạ. Sự tham gia của con người đang tư duy trong các hệ thống kinh tế và xã hội có tính chất hai chiều vừa là thụ động với tư cách người tìm hiểu và suy nghĩ về hệ thống, vừa là tích cực với tư cách người tham gia quyết định có ảnh hưởng đến hành vi và kết quả của hệ thống. Và hai tư cách đó được thực hiện đồng thời. Do là đồng thời nên thường gặp những tình huống mà con người khi suy nghĩ để làm quyết định không thể dựa vào tri thức đầy đủ và chính xác về hệ thống, đơn giản là vì chưa thể có những tri thức như vậy, tình trạng của hệ thống còn phụ thuộc vào chính quyết định của những người tham quả, vì vậy, thường khác với dự kiến, và do đó lại thêm một yếu tố bất định cho bước suy nghĩ tiếp theo. Trong những nền kinh tế chịu nhiều tác động của những yếu tố linh hoạt và nhạy cảm như tài chính, tri thức thì tính phản xạ lại càng có ý nghĩa rất quan trọng. Phản xạ xảy ra trong bất định, và chức đựng tiềm năng thường trực làm tăng tính bất định của hệ thống. Bất định, bất ổn định, nếu không được điều hòa bởi những yếu tố tự tổ chức của hệ thống thì có nguy cơ dẫn đến khủng hoảng. Vì vậy, toàn cầu hóa kinh tế hiện nay cẩn phải được đi kèm với những thỏa ước quốc tế thích hợp trong khi chưa có dấu hiệu nào sẵn sàng cho một giải pháp toàn cầu hóa xã hội tương ứng để có thể tránh đi đến khủng Vai trò và tác động của Công nghệ thông tinSự phát triển nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin đã góp phần quan trọng cho việc tạo ra những nhân tố năng động mới của nền kinh tế và xã hội, và do đó, cho quá trình hình thành nền kinh tế thông tin và xã hội thông tin. Điều đó cũng có nghĩa là công nghệ thông tin đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho môi trường kinh tế xã hội của ta biến đổi "tận gốc rễ", và ta đã nhận thức được rằng đã đến lúc ta phải tự đổi chính mình để có thể tồn tại được torng môi trường mới đó. Như đã trình bày ở trên, môi trường mới đó không còn có thể coi là bất định và ổn định, ta không còn có thể điều khiển nó theo những con đường vạch sẵn; môi trường mới chứa đầy những yếu tố biến động và bất định, là không ổn định và không tiên đoán được, có độ phức tạp ngoài năng lực điều khiển của các phương pháp truyền thống. Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa là con người đánh phó mặc cho môi trường đưa phản xạ của các hệ thống kinh tế xã hội khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của sự tham gia tích cực của con người trong các hệ thống đó; hệ thống lớn, phức tạp, về tổng thể là không ổn định, nhưng không phải là không ổn định ở mọi lúc mọi nơi, như trên đã nói, hệ thống thường có những trạng thái ổn định bộ phận và nó vận động giữa các trạng thái ổn định bộ phận đó một cách không tiên đoán được. Con người không đứng ngoại để vạch cho hệ thống những mục tiêu định sẵn, những kế hoạch chung cứng nhắc, mả phải tự nhúng mình vào hệ thống, thích nghi với hệ thống, thu nhập thông tin và tri thức để đánh giá tình hình và đưa ra giải pháp hành động kể cả xác định mục tiêu và kế hoạch một cách cục bộ cho những yếu tố tạm thời ổn định, và vì mọi hiểu biết và hành động đều có thể sai, nên phải thường xuyên đánh giá lại tri thức cũ, giải pháp cũ để có thể hiểu biết mới, giải pháp mới cho tình hình đã thay vậy, luôn luôn học, có tri thức và biết dùng tri thức để tạo tri thức, có năng lực thích nghi, linh hoạt trước mọi đổi thay, có năng lực sáng tạo và đổi mới là những phẩm chất mà từng con người cũng như các tổ chức kinh tế xã hội cần phải có nếu muốn tồn tại, phát triển và có vị trí xứng đáng trong môi trường lượt mình, Công nghệ thông tin, với những thành tựu tuyệt vời đã đạt được cũng như đầy hứa hẹn trong tương lai, đang và sẽ trợ giúp đắc lực cho con người có được những năng lực nói trên. Công nghệ thông tin đã được ứng dụng rộng rãi để thiết lập các cơ sở dữ liệu và các kho thông tin phong phú trong mọi lĩnh vực, mọi cơ quan, doanh nghiệp; đang được sử dụng tích cực để trợ giúp con người trong nhiều hoạt động trí thuệ, đặc biệt trong việc tìm kiếm và phát hiện tri thức để trợ giúp quyết định trong kinh doanh và các hoạt động kinh tế, và từ chỗ cung cấp được những thông tin và trí thức kịp thời mà làm tăng khả năng của con người cũng như các tổ chức trong việc phản ứng linh hoạt, thích nghi một cách hữu cơ, và tự thay đổi trước những biến động khôn lường của môi trường. Cũng cần nói thêm một điều là trong môi trường mới, để tăng cường những năng lực nói trên, học, việc học của mọi cá nhân, mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức phải được xem là vấn đề trung tâm. Và ở vấn đề trung tâm này, công nghệ thông tin hoàn toàn có thể cung cấp những công cụ, phương pháp và phương tiện mới để thực hiện một cách sâu rộng và có hiệu Vài ý kiến về con đường hội nhập của ta1. Về chính sách quốc gia phát triển và ứng dụng Công nghệ thông tinTrên ý nghĩa đó, vào đầu những năm 90, Chính phủ đã ra một Nghị quyết quan trọng xác định Chính sách quốc gia về phát triển và ứng dụng Công nghệ thông tin, lấy mục tiêu chủ yếu là xây dựng cơ sở cho một kết cấu hạ tầng thông tin có khả năng đáp ứng các nhu cầu thông tin cho quản lý nhà nước và cho các hoạt động kinh tế xã hội, đồng thời phát triển từng bước những cơ sở cho một nền công nghiệp công nghệ thông tin của đất nước. Chính sách đó được tổ chức thực hiện thông qua một Chương trình quốc gia về Công nghệ thông tin với một hệ thống các dự án, các biện pháp. Và, trong mấy năm qua, công nghệ thông tin ở nước ta đã có những bước phát triển đáng chú ý. Tuy nhiên, vào thời điểm sắp kết thúc thập niên này nhìn lại, thì ta thấy những điều ta mong đợi cũng còn khá xa vời. Các dự án tin học hóa được thực hiện chậm chạp, chưa thể làm mầm mống cho một kết cấu hạ tầng thông tin của quốc gia, tình trạng nghèo thông tin vẫn là một yếu kém chưa được khắc phục bao nhiêu, các chính sách về đầu tư và tài chính chưa tạo được những khuyến khích cần thiết cho việc phát triển những mầm non mà ta tin rằng rất có triển vọng của công nghiệp công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ phần mềm, công nghệ nội dung...Nghị quyết của Chính phủ ra đời từ năm 1993, về cơ bản là đáp ứng được những nhu cầu phát triển trong thập niên 90, nhưng cũng cần được cập nhật để thích ứng với những tiến bộ mới và nhữg đòi hỏi mới. Chúng ta mong rằng sẽ có những đánh giá và phân tích nghiêm túc về những gì đã đạt được và cả những gì chưa đạt được, đồng thời sẽ có những dự tính thiết thực và những biện pháp tích cực cho tương Về những bước đường tiếp tụcQua thực tiển mấy năm phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin vừa qua, tuy nhiều điều ta mong đợi còn chưa đạt được, nhưng ta cũng nhìn thấy nhiều khả năng tiềm tàng còn chưa khai thác, nhất là nhiều năng lực to lớn của thế hệ trẻ còn chưa có điều kiện để được bồi dưỡng và phát huy. Một điều có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển công nghệ thông tin là những nhu cầu của môi trường kinh tế xã hội. Một nền kinh tế thị trường phát triển với nhiều doanh nghiệp tự do đua tranh trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh, một nền hành chính quản lý đổi mới và năng động, một hệ thống dịch vụ văn hóa, xã hội phong phú... sẽ cần đến thông tin và tri thức và cũng sẽ lớn mạnh lên nhờ có thông tin và tri thức. Vì vậy, điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là công cuộc đổi mới của ta cần tạo thuận lợi thúc đẩy việc phát triển một môi trường kinh tế xã hội như vậy để trong đó công nghệ thông tin có thể phát triển nhanh chóng. Nói đúng hơn, công nghệ thông tin vừa có thể được ứng dụng để thúc đẩy sự phát triển của một môi trường kinh tế xã hội như vậy, vừa do sự lớn mạnh của môi trường đó mà chính nó lại phát triển tiếp chuyển biến sang nền kinh tế thông tin và tri thức cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế nhanh chóng đã làm phân hóa "Thế giới thứ ba", thế giới đó không còn có ký do để được coi như một thế giới riêng tự thân nữa, mà vở ra thành 4 loại nước khác nhau loại các nước khổng lồ về dân số, loại các nước có nhiều tài nguyên dầu mỏ để xuấr khẩu, và ở hai cực là loại các nước "công nghiệp hóa mới" có khả năng hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và loại các nước có nguy cơ bị dạt ra rìa của dòng chảy. Ta không thuộc vào hai loại trước, và chắc cũng không muốn để rơi vào nền kinh tế thế giới, trong đó phát triển công nghệ thông tin và xây dựng dần các yếu tố của kinh tế thông tin và tri thức là một nhân tố quan trọng, nếu không nói là quyết với các nước đang phát triển đang phấn đấu vươn lên hội nhập vào nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức trong tương lại, Ủy Ban Khoa học và công nghệ vì Phát triển của Liên hiệp quốc khuyến nghị một số nội dung chiến lược cần được tập trung thực hiện trong chính sách phát triển công nghệ thông tin như sauHướng việc sản xuất các sản phẩm công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ thiết thực các mục tiêu xã hội và tăng ưu thế cạnh tranh cho nền kinh tế;Phát triển nguồn tài nguyên nhân lực cho các chiến lược công nghệ thông tin quốc gia bằng cách đẩy mạnh và mở rộng các hình thức học, học liên tục và học suốt đời;Cải tiến quản lý sự phát triển công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý các tổ chức vì sự phát triển quốc gia;Phát triển các mạng thông tin và kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia, và thực hiện các biện pháp để mở rộng khả năng truy cập của mọi người đến các mạng đó;Khuyến khích các nguồn đầu tư và tăng cường đầu tư tài chính từ nhà nước cho phát triển công nghệ thông tin và cho kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia;Tạo mọi khả năng để truy cập tới các nguồn tri thức khoa học và kỹ thuật trên thế giới;Theo dõi và khi có cơ hội, tham gia vào việc định "các luật chơi" quốc tế liên quan đến kinh tế tri thức toàn cầu hóa, như về kết cấu hạ tầng thông tin toàn cầu, về thương mại điện tử, về các chuẩn, về an toàn thông tin, về quyền sở hữu trí tuệ...Chắc rằng các khuyến nghị đó cũng thích hợp với hoàn cảnh của nước ta, và ta có thể tham khảo trong khi cập nhật các chính sách và kế hoạch phát triền công nghệ thông tin của ta trong giai đoạn sắp thế kỷ sắp qua, và một thế kỷ mới sắp đến. Những gì xảy ra trong thế kỷ 20 này thực tế đã khác xa với những dự đoán từ cuối thể kỷ 19. Cuộc sống đang biến đổi nhanh chóng, và thề kỷ 21 chắc sẽ còn lắm đổi thay bất ngờ, khác với những điều mà hiện nay con người tiên đoán. Nhưng không vì vậy mà ta không dự đoán tương lai. Chỉ có điều là, ta phải xem mọi dự đoán đều có thể sai, và chuẩn bị sẵn sàng những năng lực để ứng phó linh hoạt và kịp thời trước mọi đổi thay. Thích nghi, sáng tạo và đổi mới không ngừng chính là những phẩm chất và bản lĩnh mà ta cần trang bị cho mình để vửng vàng đi vào thế kỷ 21, và nói như Biil Gates, ngày nay chuẩn mực chính là sự thay đổi. Phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực, làm cho xã hội giàu có thông tin và tri thức là nhân tố có ý nghĩa quan trọng để trau dồi các phẩm chất và bản lĩnh nói trên, tạo khả năng cho đất nước ta vươn lên trong mọi biến động và thử thách, vững vàng hội nhập một cách có hiệu quả vào xã hội tri thức toàn cầu trong tương lai.
xã hội tri thức